ĐƠN GIẢN HÓA THỦ TỤC HẢI QUAN, CHUẨN HÓA CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ HẢI QUAN

Báo cáo trước thềm phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Phiên họp thứ 31 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực tài chính, trong đó có nội dung về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, Bộ Tài chính cho biết với nỗ lực của toàn ngành hải quan, các nội dung về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan được đơn giản hóa, hài hòa hóa, các chế độ quản lý hải quan được chuẩn hóa...

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc

Với nỗ lực của toàn ngành hải quan, các nội dung về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan được đơn giản hóa, hài hòa hóa, các chế độ quản lý hải quan được chuẩn hóa phù hợp với Công ước Kyoto sửa đổi; thực hiện thủ tục hải quan chủ yếu bằng phương thức điện tử; áp dụng phương pháp quản lý rủi ro có những bước phát triển nhanh chóng; kiểm tra sau thông quan (KTSTQ) hoạt động chuyên nghiệp; triển khai cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN; xây dựng và áp dụng chế độ ưu tiên đặc biệt; xây dựng và phát triển hệ thống xác định trước trị giá hải quan, phân loại hàng hóa và xuất xứ hàng hóa; đại lý làm thủ tục hải quan được xây dựng và phát triển, từng bước trở thành cầu nối quan trọng giữa Hải quan và tổ chức, cá nhân thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa.

Cụ thể:

Thủ tục hải quan được đơn giản, hài hòa hóa, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế trên các phương diện: Loại bỏ các yêu cầu cung cấp thông tin, chứng từ trùng lắp, chồng chéo; phân định rõ thủ tục và các chế độ quản lý hải quan trên cơ sở khuyến nghị và chuẩn mực của Công ước Kyoto sửa đổi; hài hòa hóa các thủ tục và chế độ hải quan có chung nội dung, bản chất về một thủ tục, chế độ quản lý chuẩn mực trên cơ sở khuyến nghị của Công ước Kyoto sửa đổi.

Triển khai Hệ thống thông quan điện tử tự động VNACCS/VCIS tại 100% các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, 100% các Chi cục Hải quan trên cả nước với 100% các loại hình hải quan cơ bản, trên 99,56% tổng số doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan, đạt 99,32% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và hơn 99,63% tổng số tờ khai hải quan trên cả nước. Việc triển khai thủ tục hải quan điện tử đã tạo ra bước cải cách đột phá, thay đổi toàn diện phương thức khai, nộp hồ sơ hải quan từ thủ công sang điện tử, việc xử lý phản hồi của cơ quan hải quan cho doanh nghiệp cũng thực hiện thông qua hệ thống điện tử, tạo thuận lợi lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu, giảm thiểu chứng từ, giấy tờ và đơn giản hóa hồ sơ hải quan trong các khâu, các bước thực hiện thủ tục hải quan, giảm bớt sự tiếp xúc giữa công chức hải quan và doanh nghiệp, hạn chế các phiền hà, tiêu cực, sách nhiễu, giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Thời gian tiếp nhận và thông quan đối với tờ khai luồng xanh chỉ từ 1-3 giây.

Trong bối cảnh lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng tăng với kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng nhiều, số lượng tờ khai phát sinh lớn trong khi số lượng biên chế không tăng thêm mà còn phải thực hiện tinh giản theo chính sách tinh giản biên chế của Đảng và Nhà nước, việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong các khâu nghiệp vụ hải quan, đã giúp ngành Hải quan đáp ứng được mức độ gia tăng nhanh chóng của khối lượng công việc, cụ thể, tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước trong năm 2023 đạt 649,96 tỷ USD tương ứng với hơn 14 triệu tờ khai, trong đó xuất khẩu đạt 337,62 tỷ USD và nhập khẩu đạt 312,35 tỷ USD.

Bên cạnh đó, việc trao đổi, chia sẻ dữ liệu điện tử với các cơ quan quản lý có liên quan, các nước trong khu vực và trên thế giới cũng thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia, một của ASEAN đã mang lại lợi ích to lớn cho doanh nghiệp và cho cơ quan hải quan. Trong năm 2023, Cơ chế một cửa quốc gia đã có 250 thủ tục hành chính của 13 Bộ, ngành kết nối với sự tham gia của 67.830 doanh nghiệp. Kết nối chính thức để trao đổi thông tin chứng nhận xuất xứ mẫu D điện tử với tất cả 09 nước thành viên ASEAN. Phối hợp với Ban thư ký ASEAN và các nước thành viên để triển khai kết nối trao đổi tờ khai Hải quan ASEAN theo đúng kế hoạch, lộ trình chung. Chuẩn bị các yêu cầu liên quan để kết nối thử nghiệm trao đổi chứng nhận kiểm dịch thực vật. Bên cạnh đó, ASEAN cũng đang trao đổi để xây dựng giải pháp, lộ trình kết nối trao đổi chứng từ điện tử giữa ASEAN và các đối tác: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.

Đẩy mạnh công tác kiểm tra bằng việc chủ động trang bị các trang thiết bị kỹ thuật trong kiểm tra hải quan như máy soi, cân điện tử. Việc kiểm tra qua máy soi container trung bình từ 1-3 phút, kiểm tra kết hợp máy soi và thủ công trung bình khoảng hơn 30 phút.

Công tác giám sát hải quan đã thay đổi cơ bản về mục tiêu, yêu cầu, phương thức giám sát hải quan, tạo ra chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm như cảng biển, cảng hàng không.

Chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp được chính thức áp dụng, đến nay tổng số doanh nghiệp ưu tiên được công nhận là hơn 70 doanh nghiệp, gần 40% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước.

Cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN: Triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN đã thay đổi căn bản phương thức thực hiện thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành; góp phần đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Các thủ tục hành chính được thực hiện trên Cơ chế một cửa quốc gia giúp giảm thời gian tiếp nhận, xử lý hồ sơ của các cơ quan kiểm tra chuyên ngành và các cơ quan quản lý nhà nước khác, thủ tục nhanh gọn, đơn giản và minh bạch.

Việc trao đổi thông tin dữ liệu điện tử trên Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN giúp giảm thời gian và chi phí chuẩn bị hồ sơ, thời gian và chi phí đi lại, giảm tiếp xúc trực tiếp giữa các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước để thực hiện các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa của doanh nghiệp. Nhằm tạo hành lang pháp lý chung thống nhất cho các thủ tục kiểm tra chuyên ngành và việc triển khai các thủ tục thông qua Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN, ngày 14/11/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2019/NĐ-CP quy định về thực hiện các thủ tục hành chính theo Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN và kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020.

Áp dụng quản lý rủi ro trong việc giải quyết thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan trong những năm qua đã có những bước phát triển nhanh chóng; các biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật, tăng cường kiểm tra, kiểm soát các đối tượng trọng điểm, hàng hóa có độ rủi ro cao được áp dụng đã hài hòa giữa yêu cầu tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước về hải quan, thúc đẩy việc thông quan nhanh hàng hóa, giảm thiểu các chi phí phát sinh cho cơ quan Hải quan và doanh nghiệp.

Các biện pháp, kỹ thuật nghiệp vụ quản lý rủi ro ngày càng được chú trọng, từng bước phát triển có chiều sâu, được triển khai đồng bộ, thống nhất, đảm bảo vai trò xử lý phân luồng thông suốt 24/7, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cho việc tự động hóa, điện tử hóa thủ tục hải quan. Số liệu thống kê cho thấy, thời gian qua tỷ lệ các lô hàng phải kiểm tra hồ sơ, kiểm thực tế hàng hóa trong thực hiện thủ tục hải quan đã giảm đáng kể. Số liệu thống kê năm 2023, toàn ngành phát sinh hơn 14 triệu tờ khai trong đó luồng xanh miễn kiểm tra chiếm 68,35%, luồng vàng kiểm tra hồ sơ 27,83%, luồng đỏ kiểm tra thực tế hàng hóa là 3,82%.

Về phát triển hệ thống đại lý làm thủ tục hải quan: Việc phát triển, xã hội hóa đại lý làm thủ tục hải quan đã được chú trọng thời gian vừa qua và sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới. Tính đến hết năm 2023 đang có 1.108 đại lý hải quan đang hoạt động, trong đó có 1.763 nhân viên đại lý được cấp mã số. Đại lý hải quan đã từng bước trở thành cầu nối quan trọng giữa Hải quan và tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng hóa.

Mặc dù đạt được một số kết quả căn bản về thủ tục, kiểm tra giám sát hải quan trong giai đoạn vừa qua như nêu trên, tuy nhiên quá trình vận hành hoạt động thủ tục, kiểm tra giám sát hải quan được thực hiện theo hệ thống pháp lý xây dựng trên nền tảng hệ thống VNACCS/VCIS do phía Nhật Bản tài trợ (vận hành từ năm 2014) và các hệ thống vệ tinh do ngành Hải quan xây dựng mà chưa lường trước được xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu, chưa dự báo được sự gia tăng không ngừng của kim ngạch xuất nhập khẩu dẫn đến việc giải quyết thủ tục, kiểm tra giám sát hải quan còn một số tồn tại, hạn chế:

Trong đó, tồn tại về Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan:Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan (Hệ thống cốt lõi là Hệ thống VNACCS/VCIS và trên 20 Hệ thống vệ tinh) qua gần 10 năm vận hành, tần suất xảy ra sự cố phần cứng và phần mềm ứng dụng của Hệ thống VNACCS/VCIS và các Hệ thống vệ tinh ngày càng tăng. Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan chưa phù hợp với yêu cầu về xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Hệ thống VNACCS/VCIS chưa đáp ứng được một số hoạt động thương mại quốc tế mới (ví dụ như thương mại điện tử được vận chuyển qua giao dịch chuyển phát nhanh đường bộ...) nên các thiết kế về phần cứng, phần mềm chưa đáp ứng được yêu cầu khi có sự tăng trưởng đột biến về lượng giao dịch của các loại hình thương mại mới dẫn đến bị quá tải gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam

Tồn tại về việc kết nối trao đổi thông tin giữa các cơ quan nhà nước: Hệ thống Một cửa quốc gia hiện nay chưa đáp ứng được việc kết nối trao đổi thông tin điện tử tự động với hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan để tự động phân tích, đánh giá thông tin xác định trọng điểm, thông quan hàng hóa. Một số thủ tục hành chính liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện xuất nhập cảnh của các Bộ/Ngành hiện nay được thực hiện trên hệ thống dịch vụ công quốc gia, hệ thống dich vụ công của các Bộ/Ngành chưa được kết nối và trao đổi thông tin với hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan để phục vụ quá trình giải quyết thủ tục hải quan và các thủ tục khác có liên quan.

Tồn tại về thể chế, chính sách: Các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan đang áp dụng hiện nay được xây dựng trên nền tảng hệ thống VNACCS/VCIS chưa phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin. Các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan chưa đảm bảo phù hợp với các hoạt động thương mại mới phát sinh (thương mại điện tử, mua bán qua các bên trung gian...).

Chưa có cơ sở để triển khai dữ liệu số về hồ sơ trong quá trình giải quyết thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan hướng tới quản lý thông tin điện tử tập trung đảm bảo việc giải quyết thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan được quản lý theo chuỗi, xuyên suốt đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện xuất nhập cảnh từ khâu đầu đến khâu cuối (trước thông quan, trong thông quan và sau thông quan).

Thời gian tới, Bộ Tài chính xác định các giải pháp: Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về hải quan hiện đại, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, phù hợp với với các cam kết quốc tế; đảm bảo thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan được áp dụng theo hướng:

Áp dụng phương pháp quản lý theo chuỗi: Triển khai mô hình quản lý chuỗi cung ứng tích hợp theo hướng dẫn tại Khung an ninh và tạo thuận lợi thương mại (SAFE) của WCO; quản lý theo chuỗi giá trị đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về Hải quan đối với toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Tái thiết kế hệ thống quy trình thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan làm cơ sở để xây dựng mô hình Hải quan số theo kiến trúc Chính phủ số, Hải quan thông minh theo khuyến nghị của WCO với mức độ số hóa và tự động hóa ngày càng cao.

Triển khai mô hình quản lý biên giới hải quan thông minh theo khuyến nghị của WCO đảm bảo cơ quan Hải quan có thể giám sát, kiểm soát hàng hóa từ đầu vào các nguồn nguyên liệu đến khi đưa vào sản xuất, chế biến, vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu.

Triển khai hải quan xanh, khuyến khích và thúc đẩy hoạt động thương mại hướng tới phát triển bền vững theo mô hình nền kinh tế tuần hoàn thông qua việc triển khai hiệu quả các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường và động vật hoang dã mà Việt Nam đã ký kết, có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện các giải pháp theo mô hình nền kinh tế tuần hoàn. Giám sát và kiểm soát hiệu quả sự di chuyển hàng hóa xuyên biên giới, kịp thời ngăn chặn các vi phạm ảnh hưởng tới sức khỏe con người, ảnh hưởng tới môi trường, hệ sinh thái bảo vệ động vật hoang dã.

Triển khai thực hiện hiệu quả Đề án Cải cách mô hình kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu.

Xây dựng, triển khai mô hình thông quan tập trung thông qua việc hình thành các địa điểm kiểm tra hồ sơ hải quan tập trung tại các Hải quan Vùng, xây dựng, triển khai mô hình địa điểm kiểm tra thực tế hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan phù hợp với tình hình thực tế.

Triển khai đồng bộ và đầy đủ việc áp dụng quản lý rủi ro trong các hoạt động nghiệp vụ hải quan.

Ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ((Kết nối Internet vạn vật (IoT), Trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (Bigdata), Phân tích thông minh (BI), ...) để nâng cao hiệu quả nghiệp vụ quản lý rủi ro: Đánh giá tuân thủ, phân loại mức độ rủi ro đối với người khai hải quan; phân tích, đánh giá rủi ro và xác định trọng điểm để cảnh báo rủi ro, áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát phù hợp, hiệu quả ở ba khâu trước, trong và sau thông quan.

Đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại: Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin thực hiện hải quan số đáp ứng yêu cầu về cải cách thể chế, phù hợp với yêu cầu về xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Nâng cấp hệ thống Một cửa quốc gia, hệ thống một cửa ASEAN để đáp ứng được yêu cầu kết nối, chia sẻ thông tin phục vụ việc xử lý tự động của hệ thống hải quan số.

Đầu tư các trang thiết bị hiện đại hỗ trợ việc thực hiện quy trình thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan trên cơ sở triển khai hệ thống hải quan số.

Bảo Yến

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=85415