Việt Nam vẫn duy trì được sức hấp dẫn đối với doanh nghiệp nước ngoài

Ngày 19/3, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) thường niên được mong đợi với chủ đề 'Doanh nghiệp FDI tiên phong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh' đã diễn ra tại Hà Nội. Sự kiện do Bộ KH&ĐT phối hợp với Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam; Tổ chức tài chính quốc tế (IFC) và Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức.

Năm nay, lần đầu tiên VBF có cơ hội kết hợp diễn đàn thường niên quan trọng này với Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp mặt cộng đồng doanh nghiệp FDI, đánh dấu một mốc quan trọng với trên 600 thành viên tham dự. Ảnh: Ngô Sơn

Doanh nghiệp FDI tiên phong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh

Năm nay, lần đầu tiên VBF có cơ hội kết hợp diễn đàn thường niên quan trọng này với Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp mặt cộng đồng doanh nghiệp FDI, đánh dấu một mốc quan trọng với trên 600 thành viên tham dự. Các cơ quan chính phủ, lãnh đạo doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện ngoại giao, và các bên liên quan khác đã cùng nhau thảo luận về những vấn đề quan trọng đang định hình bức tranh kinh tế Việt Nam. Sự hiện diện của Thủ tướng Phạm Minh Chính và lãnh đạo các Bộ ngành đã thể hiện mạnh mẽ cam kết của Chính phủ trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho FDI và phát triển bền vững.

Với trọng tâm toàn cầu về bền vững và trách nhiệm môi trường, diễn đàn năm nay nêu bật vai trò quan trọng của FDI trong thúc đẩy các sáng kiến tăng trưởng xanh với hai phiên thảo luận chuyên sâu chính: vai trò của FDI trong bối cảnh mới: trong bối cảnh biến động liên tục trên toàn cầu, phiên thảo luận đã tìm hiểu vai trò liên tục biến đổi của FDI trong bối cảnh kinh tế Việt Nam và đề xuất những khuyến nghị quan trọng cho các chính sách kinh tế quan trọng; doanh nghiệp FDI tiên phong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.

Tại phiên này, VBF đã công bố Báo cáo khảo sát Môi trường - Xã hội - Quản trị (ESG) do VBF thực hiện cuối năm 2023 và đầu năm 2024, tổng hợp góc nhìn của các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Nghiên cứu thu thập hơn 650 câu trả lời, với thông tin chi tiết và giá trị về môi trường kinh doanh Việt Nam, bao gồm hiện trạng phát triển ESG và sự phù hợp với bối cảnh kinh doanh hiện tại của Việt Nam.

Trong phiên này, một số doanh nghiệp FDI tiêu biểu đã chia sẻ thông lệ tốt nhất trong việc lồng ghép chiến lược tăng trưởng xanh trong hoạt động tại doanh nghiệp của mình.

Nhận xét về tầm quan trọng của sự kiện, Đồng Chủ tịch VBF - ông Nitin Kapoor chia sẻ: “VBP thường niên và Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp gỡ cộng đồng doanh nghiệp FDI năm nay là nền tảng để thúc đẩy đối thoại và hợp tác giữa các bên liên quan với cam kết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Bền vững là yêu cầu thiết yếu vì sự thịnh vượng của hành tinh và các thế hệ tương lai. Thông qua việc nhấn mạnh vai trò then chốt của doanh nghiệp FDI trong việc tiên phong thực hiện các chiến lược tăng trưởng xanh, chúng tôi mong muốn truyền cảm hứng cho các giải pháp khả thi mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và xã hội nói chung”.

VBF là một cơ chế đối thoại liên tục và chặt chẽ giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp nhằm cải thiện các điều kiện kinh doanh cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân, thuận lợi hóa môi trường đầu tư, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam.

Theo Báo cáo lộ trình hướng tới phục hồi kinh tế bền vững, VBF khẳng định dù gặp nhiều khó khăn, Việt Nam vẫn duy trì được sức hấp dẫn đối với doanh nghiệp nước ngoài, đứng trong top 3 điểm đến hấp dẫn với nhà đầu tư.

Môi trường kinh doanh ở Việt Nam hấp dẫn nhờ bối cảnh chính trị ổn định, chi phí lao động thấp và thị trường tiêu dùng đang mở rộng, do đó, Chính phủ cần tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ để tăng trưởng bền vững; tập trung nâng cao trình độ của lực lượng lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến chế tạo, sẽ thúc đẩy hình thành một môi trường kinh doanh thịnh vượng và linh hoạt.

Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, nhận thức được tầm quan trọng của tăng trưởng xanh đối với tương lai đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.

Chiến lược đã xác định rõ tăng trưởng xanh là giải pháp quan trọng để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa carbon trong dài hạn.

Tăng trưởng xanh lấy con người làm trung tâm, dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững.

Trong quá trình đó, cộng đồng doanh nghiệp được xác định là nhân tố trọng tâm, đóng vai trò quan trọng. Với thế mạnh về vốn, công nghệ, quản trị, mạng lưới, thị trường,… các doanh nghiệp FDI phải đóng vai trò tiên phong, dẫn dắt, đồng hành cùng doanh nghiệp trong nước thực hiện các mục tiêu của Chiến lược tăng trưởng xanh.

Tại hội nghị, đại diện Hiệp hội doanh nghiệp các nước tại Việt Nam như Anh quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu, Singapore…; các tập đoàn kinh tế đa quốc gia tại Việt Nam như Intel, Samsung, Bosch, Erex, Coca-Cola, Heineken… tham luận đánh giá về vai trò của FDI trong bối cảnh mới và tham vấn chính sách, khuyến nghị nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

Kiến nghị 4 vấn đề cấp bách trong lĩnh vực thuế và hải quan

Phát biểu tại VBF, đại diện nhóm Công tác Thuế và Hải quan của VBF cho biết hiện có 4 vấn đề mang tính cấp bách liên quan đến lĩnh vực thuế cần giải quyết.

Phát biểu tại VBF, đại diện Nhóm Công tác Thuế và Hải quan của VBF cho biết hiện có 4 vấn đề mang tính cấp bách liên quan đến lĩnh vực thuế cần giải quyết. Ảnh: Ngô Sơn

Cần đẩy nhanh tiến độ xét duyệt APA: Theo ông Seck Yee Chung - đại diện nhóm Công tác Thuế và Hải quan của VBF, thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều biện pháp như ban hành mới và sửa đổi văn bản pháp luật, quy định các gói hỗ trợ đầu tư để từng bước tháo gỡ khó khăn, giúp các doanh nghiệp có niềm tin và nguồn lực để đối phó với tình hình mới.

Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định, chính sách vẫn còn tồn tại một số bất cập, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Một số quy định trong các văn bản vẫn còn mâu thuẫn nhau, gây khó khăn trong quá trình áp dụng, cản trở quá trình đầu tư thông suốt của doanh nghiệp.

Cụ thể, theo ông Seck Yee Chung, việc thực hiện cơ chế Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) - xu thế chung của các nước nhằm áp dụng hiệu quả việc quản lý nguồn thu từ các giao dịch xuyên biên giới đồng thời mang lại lợi ích cho người nộp thuế, còn chậm trễ. Sau 11 năm thực hiện, số lượng hồ sơ APA được các người nộp thuế nộp lên Tổng Cục thuế đạt khoảng 30 bộ, nhưng đến nay chưa có hồ sơ nào được phê duyệt. Việc này gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh và tiêu tốn thời gian, công sức theo đuổi của người nộp thuế trong bối cảnh khung pháp lý đã ban hành và đã có nhiều thông lệ tốt trên thế giới.

Để chính sách từ văn bản đi vào thực tế, nhóm Công tác Thuế và Hải quan kiến nghị Chính phủ bố trí giải quyết các hạn chế nêu trên và thành lập Tổ công tác đặc biệt để thúc đẩy việc giải quyết, đàm phán và ký kết các hồ sơ APA. Điều này nhằm hiện thực hóa cam kết xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là cơ sở để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào nền kinh tế Việt Nam.

Mở rộng diện ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ đầu tư: ông Seck Yee Chung đề cập đến dự thảo Nghị định về thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư, trong đó quy định đối tượng ưu đãi còn quá hẹp. Cụ thể, điều kiện về quy mô vốn hoặc doanh thu rất cao, dẫn đến chỉ có số lượng rất ít doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao có thể đạt được. Mặt khác, đối tượng của chính sách chưa bao gồm đầy đủ nhóm các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao hay các nhà đầu tư chiến lược.

Vì vậy, Nhóm công tác Thuế và Hải quan kiến nghị bổ sung đối tượng doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghệ cao (tập đoàn lớn có quy mô đầu tư ở Việt Nam từ 20.000 tỷ đồng hoặc từ 1 tỷ USD trở lên) và các doanh nghiệp/dự án trong các lĩnh vực sản xuất khác có tổng vốn đầu tư như trên.

Không phân biệt đối xử về thủ tục hải quan: ông Seck Yee Chung cho biết gần đây Tổng Cục Hải quan tiếp tục đề xuất chỉ cho phép thương nhân nước ngoài (không có hiện diện tại Việt Nam) được thực hiện thủ tục hải quan liên quan đến giao dịch mua bán, phân phối hàng hóa tại Việt Nam. Theo đánh giá của Tổ Công tác Thuế và Hải quan, chính sách này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như hạn chế nguồn thu cho ngân sách.

Ông Seck Yee Chung nhấn mạnh pháp luật thương mại hiện hành không cấm các thương nhân này thực hiện giao dịch mua bán, phân phối hàng hóa tại Việt Nam. Chính vì vậy, Nhóm Công tác Thuế và Hải quan kiến nghị không nên phân biệt đối xử với đối tượng này mà cần áp dụng đồng nhất và thực hiện quản lý thông qua quy định về các điều kiện kinh doanh, chế độ báo cáo, quản lý thuế để khuyến khích thương nhân nước ngoài tăng cường đầu tư và hiện diện thương mại tại Việt Nam.

Làm rõ đối tượng phải xin giấy phép xuất nhập khẩu: ông Seck Yee Chung nêu dẫn Nghị Định 90/2007/NĐ-CP ngày 31/5/2007 của Chính Phủ, thương nhân nước ngoài phải có Giấy phép quyền nhập khẩu, quyền xuất khẩu thì mới được thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ nội địa vào kho ngoại quan/nhập khẩu hàng hóa từ kho ngoại quan vào nội địa hoặc xuất nhập khẩu tại chỗ. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp khi nộp hồ sơ xin giấy phép lên Bộ Công Thương song sau 2 năm vẫn chưa được xử lý.

Do đó, nhóm Công tác Thuế và Hải quan cũng kiến nghị các cấp quản lý cần thiết phải làm rõ trường hợp nào cần xin Giấy phép cho quyền nhập khẩu, xuất khẩu của thương nhân nước ngoài và bổ sung hướng dẫn rõ ràng quy trình, thời gian cụ thể để thúc đẩy quá trình cấp giấy phép cho các doanh nghiệp.

Ngô Sơn

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/viet-nam-van-duy-tri-duoc-suc-hap-dan-doi-voi-doanh-nghiep-nuoc-ngoai-373980.html