Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương (2/1951) đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa trọng đại của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) đã chính thức ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc thêm những nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc ngày càng nâng lên. Ảnh: Việt Hưng

Đặc biệt, qua tổng kết lý luận, thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo có ý nghĩa rất to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó không chỉ có giá trị lớn lao trong thế kỷ XX đối với dân tộc ta mà nó trường tồn với thời gian.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng cho mình một xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp lớn lao, vô cùng khó khăn và gian khổ đó chỉ có thể thực hiện được bằng sức mạnh của cả dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong Diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam ngày 5/9/1960, Người vạch rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phân đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin”. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và vun đắp suốt cuộc đời. Theo Người, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. (Hồ Chí Minh Toàn tập. NXB Sự thật. Hà Nội, Tập 4 trang 25).

Tin vào dân, dựa vào dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” với tư tưởng truyền thống của tổ tiên “Nước lấy dân làm gốc”. Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tất cả “con dân nước Việt", là “con cháu Lạc Hồng”, không phân biệt dân tộc thiểu số với đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo.

Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống chết vì dân là nguyên tắc tối cao và xuyên suốt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhiều lần Người nhấn mạnh: “Nhân dân có sức mạnh dời non, lấp biển”.

Nguyên tắc tin dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm nội dung cơ bản đó là: “Dân là gốc”, là nền tảng, là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn gốc sức mạnh vô địch của đại đoàn kết, là nhân tố quyết định thắng lợi của đại cách mạng, là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước. Có dân là có tất cả. Từ đó Người luôn coi trọng và suốt đời chăm lo cho rừng cây đại đoàn kết dân tộc đâm chồi nẩy lộc, nở hoa kết trái. Từ đó Người khẳng định: “Lực lượng bao nhiêu đều là nhờ dân hết, có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.

Phát biểu tại buổi khai mạc Đại hội hợp nhất Mặt trận Việt minh với Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) 3/1951, lần đầu tiên Người nêu khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Khẩu hiệu này được người nhắc lại tại Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II, ngày 25/4/1961 và ngày nay đã trở thành chân lý qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong suốt mấy chục năm qua.

Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đoàn kết rộng rãi và lâu dài. Phát biểu tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc ngày 10/1/1955, Người nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Từ đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố: nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi”. (Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB Sự thật. Hà Nội 187. t7. tr. 134)

Qua thống kê, phân tích những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố, trong Hồ Chí Minh toàn tập gồm 1.921 bài đã thấy có 839 bài, chiếm 40,36% số bài với 1.809 lần Người sử dụng từ đoàn kết, đại đoàn kết. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Người sử dụng 16 lần; bài nói trong buổi khai mạc Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt 17 lần; Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh, tổ chức vào năm 1957, Người sử dụng 19 lần. Ngay trong bản Di chúc bất hủ của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, Người đã 8 lần căn dặn: “Phải đoàn kết”, “đoàn kết chặt chẽ”, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí”, “củng cố và phát triển sự đoàn kết”, “phải đoàn kết lại”.

Muốn thực hiện được chiến lược đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, đại độ với con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Ngay cả đối với những người lầm đường, lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ, mà hoàn toàn không định kiến. Thậm chí, đối với những người trước đây đã từng chống chúng ta nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn mở rộng cửa đón tiếp họ. Người còn dặn: Cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.

Nói về đoàn kết độ lượng và rộng rãi, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ ngày 31/5/1946, trước khi lên đường sang thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang...” (Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB Sự thật. Hà Nội 1984. T4. Tr. 126 - 139)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng xã hội mới. Việc xây dựng lực lượng trong nước có ý nghĩa quyết định “để tự ta giải phóng cho ta”. Theo Người, muốn có lực lượng thì phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là một lực lượng vô địch”. Người cho rằng: “Cách mạng là công việc chung của dân chúng chứ không phải của một vài người. Cách mạng là một việc khó nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc chắn làm được”. Người cũng chỉ ra cho nhân dân ta phương pháp để tự giải phóng: “Muốn đánh thắng Pháp, Nhật ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết”. Người chỉ rõ: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn xảo quyệt đến mức nào đụng đầu vào bức tường đó chúng cũng thất bại”.

Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu ngày 19/3/1946, Người viết: “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”.

Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một khối. Đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra sức mạnh to lớn không một kẻ thù nào có thể thắng nổi. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược. Nó là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.

Phát biểu tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 19/3/1958, Người phân tích: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, mỗi người cần đoàn kết thật sự và giúp nhau cùng tiến bộ. Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái vì nước, vì dân. Tóm lại muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thật sự và cùng nhau tiến bộ”.

Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.

Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam

Hàng triệu người Việt Nam còn nhớ câu nói bất hủ của Bác Hồ với cụ Huỳnh Thúc Kháng về kế sách giữ nước khi Người trao Quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh trước khi lên đường sang nước Pháp (31/5/1946), đó là: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; là “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đó là nguyên tắc “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy cái bất biến, cái thống nhất, cái chung, cái ổn định làm điểm tương đồng mà điều hòa, giải quyết cái vạn biến, tức những cái khác biệt về lợi ích, về ý kiến, về xu hướng vốn có trong xã hội và trong nhân dân. Những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động được biểu hiện cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng như: ruộng đất cho dân cầy, việc làm, đời sống, dân chủ, công bằng xã hội cho công nhân và người lao động. Đối với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân: “Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là khát vọng muôn đời của nhân dân ta, của nhân dân và các dân tộc trên thế giới. Đó là cơ sở của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.

Người nói: “Cuộc cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa”. (Hồ Chí Minh tuyển tập. NXB Sự Thật Hà Nội 1960. Tr. 651).

Trong bài nói chuyện tại buổi lễ bế mạc Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 10/9/1955, Người khẳng định: “Lịch sử trong những năm qua đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô địch, và Mặt trận dân tộc thống nhất đã nhiều lần thắng lợi. Mặt trận Việt Minh đã giúp cách mạng Tháng Tám thành công. Mặt trận Thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi. Chúng ta có thể tin chắc rằng: với sự cố gắng của mỗi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”.

Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích theo Hồ Chí Minh, trước hết phải nhận thức và xử lý đúng mối quan hệ cốt lõi giữa giai cấp và dân tộc: “Dân tộc không độc lập thì giai cấp vạn năm không được giải phóng và nhân dân ta mãi mãi phải chịu kiếp ngựa trâu” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8; 5/1941).

Trong mối quan hệ đó, vai trò lãnh đạo và lợi ích của giai cấp công nhân chỉ có thể được đảm bảo khi giai cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai cấp và đại diện lợi ích chung nhất của các giai cấp, tức là giai cấp công nhân phải tự trở thành dân tộc, phải giương cao ngọn cờ dân tộc. Đi đôi với việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kết hợp chặt chẽ giữa dân tộc với quốc tế.

Vì vậy, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng - lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp”.

Như thế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng cộng sản Việt Nam có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của nhân dân thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.

Nguyễn Tuấn Anh

Nguồn Bắc Giang: http://baobacgiang.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc-091434.bbg