Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trước hết phải tuân theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại. Trước khi bàn về chế độ sở hữu, cần phải giả định khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm khuôn khổ cho chế độ sở hữu sẽ được bàn đến. Vì cách hiểu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như thế nào, thì quan điểm về chế độ sở hữu sẽ bị lệ thuộc vào đó. Nền kinh tế thị trường trong khuôn khổ bài viết là nền kinh tế tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại, mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đạt tới trình độ hiện đại trong thời gian rút ngắn khoảng 30 - 40 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nền kinh tế thị trường thực sự hiện đang tồn tại ở tất cả các nước phát triển có thể với các mô hình khác nhau. Nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung, đó là:

Thứ nhất, cơ sở vật chất và công nghệ của các nền kinh tế thị trường này đều dựa trên sự phát triển của đại công nghiệp và đang có xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức.

Thứ hai, tất cả các nền kinh tế thị trường này đều dựa trên nền tảng là sở hữu tư nhân, tuy vẫn có sở hữu nhà nước, nhưng có tỷ trọng không lớn và chỉ có vai trò hỗ trợ cho sở hữu tư nhân phát triển.

Thứ ba, giá cả của tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ như: giả cả, lãi suất, tỷ giá, tiền lương… đều do thị trường xác định, có sự điều tiết hợp lý của nhà nước khi cần thiết.

Thứ tư, các nguồn lực phát triển: tiền tệ, vốn, công nghệ, lao động… do thị trường phân bổ.

Thứ năm, các nền kinh tế thị trường này đều mở cửa, hội nhập quốc tế.

Thứ sáu, trong các nền kinh tế thị trường này, nhà nước đều can thiệp để hạn chế bớt mặt trái của thị trường, như: giảm bớt tình trạng nghèo đói, giảm ô nhiễm môi trường, hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng, định hướng hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế…

Những quan điểm về chế độ sở hữu

Chế độ sở hữu phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Ảnh minh họa - Nguồn Internet

Chế độ sở hữu nô lệ tồn tại trên cơ sở kinh tế hái lượm và săn bắn, khi kinh tế trồng trọt và chăn nuôi xuất hiện thì chế độ sở hữu nô lệ cũng không còn cơ sở để tồn tại. Khi các công trường thủ công xuất hiện nền văn minh công nghiệp phát triển thì chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến cũng không thể tồn tại, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và thay thế nó.

Ngay chính chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa cũng luôn tự điều chỉnh và phát triển phù hợp với trình độ phát triển của đại công nghiệp. Nước Anh với nền văn minh công nghiệp đã thống trị thế giới.

Nhưng nền văn minh công nghiệp đã nhường chỗ cho nền văn minh tài chính với chế độ sở hữu tư bản (chứ không phải là sở hữu nhà máy), nước Mỹ đã thống trị thế giới bằng nền văn minh tài chính.

Người ta đang nói tới thời kỳ tàn lụi của văn minh tài chính, một nền kinh tế tri thức đã xuất hiện, chế độ sở hữu trí tuệ sẽ thống trị và các nhân tài sẽ có vai trò chi phối thế giới này.

C.Mác đã khái quát mối quan hệ phụ thuộc này thành quy luật thích ứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật này chi phối sự phát triển của các chế độ sở hữu và do đó cả các chế độ xã hội với câu nói nổi tiếng là “Cái cối xay tay đem lại xã hội có vua chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đem lại xã hội có chủ nghĩa tư bản công nghiệp”1.

Các hình thức sở hữu ngày càng đa dạng và luôn bị chi phối bởi hình thức sở hữu tiên tiến nhất

Sự phát triển của các hình thức sở hữu ngày càng đa dạng, từ chế độ sở hữu nô lệ, chế độ sở hữu ruộng đất đến chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa hiện đại. Chế độ sở hữu nô lệ là chế độ tư hữu thuần nhất của các chủ nô.

Chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến có hình thức sở hữu: tư và công, trong đó hình thức tư hữu ruộng đất là hình thức tiên tiến nhất có vai trò chi phối dưới chế độ phong kiến.

Chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa hiện đại đã ngày càng đa dạng gồm: sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước, sở hữu cổ phần và hình thức sở hữu cổ phần là hình thức sở hữu xã hội tiên tiến nhất, phổ biến nhất và có vai trò chi phối nhất trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại.

Hình thức của cải của xã hội phổ biến không phải là hàng đống hàng hóa hay là hàng triệu nhà máy, mà là các cổ phiếu chứng khoán, các giấy tờ có giá được lưu hành trên thị trường tài chính.

Những của cải vật chất của các chủ sở hữu có thể vẫn tồn tại bất động, nhưng giá trị thực của nó đã lưu thông, vận động khôn cùng trên các thị trường tài chính, các chủ sở hữu tư nhân hay nhà nước cũng phải nắm giữ các công cụ tài chính quan trọng này.

Các quan hệ sở hữu phải được thể chế hóa theo hướng hiện đại mới có giá trị thực tế

Các quan hệ sở hữu phải được bảo vệ bằng hệ thống thể chế chính thức của Nhà nước mới có giá trị thực tế. Quyền sở hữu tư nhân là quyền sở hữu cơ bản của mọi nền kinh tế thị trường phải được bảo vệ trước hết và phải được thể chế hóa trước hết.

Các bộ luật dân sự, luật kinh tế phải thể hiện được yêu cầu này. Tất cả các quan hệ sở hữu đa dạng trên mọi lĩnh vực từ tư liệu sản xuất đến tư liệu tiêu dùng, từ lĩnh vực bất động sản đến tài chính, từ sở hữu các sản phẩm vật chất đến sở hữu trí tuệ… đều phải được thể chế hóa.

Hình thức của cải của xã hội đã phát triển và tiến hóa, chế độ sở hữu cũng vậy, đã tiến từ sở hữu đất đai, sở hữu các tư liệu sản xuất, sở hữu các loại trái phiếu và cổ phiếu, chứng khoán đến sở hữu trí tuệ. Các thể chế cũng luôn được đổi mới để phù hợp với các hình thức sở hữu trên.

Các nền kinh tế thị trường phát triển đã trải qua hơn 4 thế kỷ điều chỉnh, thích ứng của các loại thể chế liên quan đến chế độ sở hữu, do vậy, những thể chế này đã càng hoàn thiện và ngày càng được hiện đại hóa. Các nền kinh tế thị trường kém phát triển có được lợi thế đi sau - có thể rút ngắn con đường thể chế hóa các quan hệ sở hữu theo hướng hiện đại2.

Quan hệ sở hữu liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng, do vậy việc thể chế hóa quan hệ sở hữu phải là sự thể chế hóa toàn bộ quá trình đó, không thể thể chế hóa từng khâu, từng bộ phận.

Cải cách chế độ sở hữu ở Việt Nam phải theo hướng hiện đại

Chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay đã có những đổi mới rất cơ bản, nhưng vẫn còn những khác biệt rất lớn so với chế độ sở hữu ở các nền kinh tế thị trường hiện đại.

Trong cơ cấu của chế độ sở hữu ở Việt Nam, tỷ trọng sở hữu của Nhà nước còn quá lớn, các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 28% GDP.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong khi ở các nền kinh tế thị trường phát triển, kinh tế nhà nước không có vai trò này. Sở hữu tư nhân là nền tảng của các nền kinh tế thị trường hiện đại, thì ở Việt Nam sở hữu tư nhân chưa có vai trò đó.

Kinh tế thị trường ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, công cuộc đổi mới và hoàn thiện chế độ sở hữu ở Việt Nam cần có những bước đi phù hợp.

Trước hết, phải phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân để khu vực này dần dần có thể thay thế các doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ. Đồng thời, phải thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước rút vốn ra khỏi những lĩnh vực không cần nắm giảm tỷ trọng của doanh nghiệp xuống mức thích hợp, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển.

Thực hiện việc phân bổ các nguồn lực theo cơ chế thị trường cạnh tranh, theo các tín hiệu giá cả thị trường như giá cả hàng hóa dịch vụ, lãi suất, tỷ giá, tiền lương. Xây dựng các thị trường yếu tố, đặc biệt là thị trường bất động sản và thị trường tài chính là hai thị trường có ý nghĩa chi phối, khuyến khích cạnh trạnh, kiểm soát độc quyền.

Nhà nước luôn có vai trò quan trọng trong tiến trình đổi mới và hoàn thiện chế độ sở hữu

Ở những nền kinh tế đã phát triển, thị trường đã hoàn thiện, nhà nước chỉ giữ vai trò hỗ trợ thị trường, khắc phục các yếu kém của thị trường và để làm điều này, khu vực sở hữu nhà nước nói chung là nhỏ, nhà nước không cần có khu vực sở hữu lớn cũng có thể làm được vai trò đó. Song, dù là nhỏ cũng phải có và dường như sự tồn tại của sở hữu nhà nước có tính tất yếu khách quan.

Những nền kinh tế kém và đang phát triển khu vực sở hữu nhà nước thường có tỷ trọng lớn, và chiếm giữ những ngành và lĩnh vực quan trọng. Nhà nước thường sử dụng khu vực này để định hướng và ổn định nền kinh tế.

Những kiến nghị về giải pháp đổi mới hoàn thiện chế độ sở hữu

Trước hết phải đổi mới quan điểm về chế độ sở hữu

Quan điểm xem sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là công hữu, là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối lập với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đây là quan điểm phát triển của mô hình kinh tế Xô Viết do các nhà kinh tế Nga đề xuất. Mô hình này đã tồn tại 74 năm và sự sụp đổ của nó đã chứng tỏ quan điểm trên không có căn cứ thực tiễn.

Về lý luận, cả C.Mác và V.I.Lênin cũng không có chỗ nào khẳng định rằng công hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Quan điểm về chế độ sở hữu ở nước ta một thời đã xem sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể là hai hình thức cơ bản của chế độ công hữu.

Trong quá trình đổi mới quan điểm này đã dần dần được khắc phục. Vấn đề đặt ra hiện nay là trong quan điểm về chế độ sở hữu còn có những quan điểm gì bất cập và bất cập so với tiêu chí nào, và phải đổi mới những quan điểm này như thế nào?

Kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, do đó nó phải đối diện cạnh tranh với tất cả các nền kinh tế thị trường trên toàn cầu. Trong nền kinh tế thị trường chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản tạo lập sức mạnh cạnh tranh.

Thực tế thế giới cho thấy những doanh nghiệp nhà nước nói chung dù có hiệu quả cũng không đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân. Đó là lý do mà các nước phát triển phải liên tục thực hiện chương trình tư nhân hóa để thu hẹp khu vực này lại.

Chỉ trong điều kiện khủng hoảng, một số doanh nghiệp tư nhân hết sức quan trọng cho nền kinh tế quốc dân bị lâm nguy, thì Nhà nước mới buộc phải quốc hữu hóa. Các doanh nghiệp nhà nước nên phát triển ở các lĩnh vực nào, nên giữ một tỷ trọng thế nào là phù hợp, hình thức sở hữu nào là hiệu quả hơn…?

Từ thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp nhà nước thường hiện diện ở những lĩnh vực kinh tế mà kinh tế tư nhân không làm được. Những ngành này nhiều ít khác nhau tùy theo từng nước những lĩnh vực có thể kinh doanh kiếm lợi, có tính cạnh tranh cao nên để cho tư nhân làm.

Quan điểm phát triển chế độ sở hữu ở nước ta phải ngày càng tiếp cận với các quan điểm phát triển chế độ sở hữu của các nền kinh tế thị trường hiện đại.

- Khu vực sở hữu nhà nước là cần thiết và tồn tại như một tất yếu khách quan và giữ vai trò hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư nhân, góp phần định hướng phát triển chủ yếu ở một số ngành công nghiệp quốc phòng, công nghệ tiên tiến, dịch vụ công…

- Khu vực sở hữu tư nhân phải được khuyến khích phát triển và bảo vệ các quyền cần thiết.

- Sở hữu cổ phần là hình thức sở hữu phổ biến và tiên tiến cần tạo dựng các điều kiện cần thiết cho nó phát triển, đặc biệt là phát triển thị trường tài chính đa dạng.

Trước hết phải xây dựng các thể chế hiện đại cho các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho tất cả các doanh nghiệp cả của nhà nước và tư nhân có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, phải tuyển chọn những nhà quản lý tài năng vào các vị trí quản trị các thị trường này, kể cả các nhà quản lý nước ngoài.

Những quan điểm trên có tính chất chung cho các chế độ sở hữu của mọi nền kinh tế thị trường hiện đại, tuy nhiên mỗi nền kinh tế thị trường của một quốc gia lại có những điều kiện đặc thù cần phải tính đến.

Những điều kiện đặc thù này có thể làm cho các chế độ sở hữu ở các nền kinh tế thị trường khác có những sắc thái khác nhau. Khu vực sở hữu nhà nước ở Mỹ rất nhỏ, khoảng 2% GDP, nhưng khu vực sở hữu nhà nước ở châu Âu và Đông Á lớn hơn, khoảng trên 10% GDP.

Sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phải được đổi mới

Sở hữu nhà nước là yếu tố nền tảng cho vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, sở hữu nhà nước bao gồm sở hữu đất đai, rừng biển, các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước, các cơ sở làm các dịch vụ công…

Quan trọng nhất trong sở hữu nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước, các kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, các cơ sở làm dịch vụ công. Sở hữu nhà nước không đồng nhất với kinh tế nhà nước, vì kinh tế nhà nước còn bao gồm cả ngân sách quốc gia, bộ máy điều hành nền kinh tế quốc dân…

Trong các nền kinh tế thị trường hiện đại không có nền kinh tế thị trường nào xem kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tuy nhiên, các nền kinh tế thị trường Đông Á phát triển, nhà nước (chứ không phải kinh tế nhà nước) đã có vai trò chủ đạo trong cả việc phân bổ nguồn lực và phân phối lại, nhưng cũng chỉ ở giai đoạn bứt phá chuyển thành nền kinh tế phát triển.

Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có một điểm đặc thù là đã xem kinh tế nhà nước là khu vực có vai trò chủ đạo.

Vai trò chủ đạo này được xác định là công cụ định hướng điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 2006).

Đại hội XI, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi cũng khẳng định quan điểm này. Tuy nhiên, các văn kiện trên đều khẳng định xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, xóa bỏ độc quyền và độc quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, phát triển các doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức kinh tế phổ biến…

Trên thực tế, trong khu vực kinh tế nhà nước đang xuất hiện không ít vấn đề phức tạp. Để khắc phục những hạn chế, cần thực thi những giải pháp. Trong đó, giảm tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp nhà nước xuống mức phù hợp với thị trường thế giới. Xây dựng và thực hiện quyết liệt một chương trình cổ phần hóa bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ từ 51% đến 100%.

Áp dụng cơ chế cổ phần hóa hiện đại theo hướng công khai, minh bạch, đấu thầu các cổ phiếu này trên thị trường chứng khoán, cấm việc bán cổ phiếu chỉ trong nội bộ doanh nghiệp, bán cho những người quản lý doanh nghiệp, vì đây là hành vi dễ bị lợi dụng làm thất thoát tài sản nhà nước.

Thực hiện cơ chế quản trị doanh nghiệp hiện đại theo các chuẩn mực của các nước phát triển. Thực hiện chế độ thi tuyển cạnh tranh các chức vụ quản lý quan trọng trong các doanh nghiệp nhà nước.

Đổi mới chế độ sở hữu đất đai theo hướng đảm bảo sử dụng đất có hiệu quả

Cho đến nay, ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tuy có không ít ý kiến muốn đa dạng hóa chế độ sở hữu đất đai, nghĩa là muốn xây dựng một chế độ sở hữu đất đai đa dạng trong đó có sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Cuộc thảo luận đang diễn ra sôi nổi nhằm sửa đổi Luật Đất đai năm 2013.

Vấn đề đặt ra hiện nay là phải đổi mới, hoàn thiện chế độ sở hữu đất đai cả về nội dung kinh tế và pháp lý. Về kinh tế, cần mở rộng quyền sử dụng đất như kéo dài thời hạn sử dụng đất cho các chủ kinh doanh phù hợp với hoạt động kinh doanh của họ, như: đất nông nghiệp - thời hạn sử dụng có thể là 20 - 30 năm, đất lâm nghiệp là 50 - 70 năm, đất đô thị là 99 năm… Gia tăng hạn điền theo hiệu quả sử dụng đất cho các loại cây trồng yêu cầu, chẳng hạn đất trồng lúa có thể phải đến 40 - 50ha, đất trồng rừng đến vài trăm ha…

Về quản lý nhà nước cũng cần có những đổi mới. Nhà nước phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, có chế tài giám sát việc thực hiện. Thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất theo các nguyên tắc của thị trường, công khai, minh bạch.

Nhà nước phải quy định việc phân phối lại lợi ích phát sinh từ quá trình chuyển đổi công năng, mục đích sử dụng đất, từ hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng làm tăng giá trị đất… Hoàn thiện hệ thống đăng ký đất đai, bất động sản, cơ chế cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất, đây là cơ sở pháp lý cơ bản cho thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả.

Đổi mới chế độ sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo hữu hiệu, bảo vệ quyền sở hữu trên các lĩnh vực

Từ những năm 1980, Việt Nam đã đặt vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, năm 1995, Luật Dân sự đã có điều khoản bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đến năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam được ban hành, và Cục Sở hữu trí tuệ, Viện Nghiên cứu sở hữu trí tuệ được thành lập và hoạt động.

Tuy nhiên, tình hình sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện đang có một số vấn đề đáng quan tâm. Các bằng phát minh, sáng chế khoa học công nghệ của Việt Nam còn rất hạn chế so với các nước trong khu vực.

Đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ tài năng của Việt Nam còn hạn chế, đội ngũ cán bộ khoa học thiếu những người dẫn đầu sử dụng họ một cách hiệu quả. Do vậy, cán bộ khoa học và công nghệ Việt Nam đông mà không mạnh, nhiều người có học hàm học vị, nhưng lại thiếu sáng tạo phát minh.

Tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ diễn biến phức tạp và khá phổ biến. Mẫu mã hàng hóa bị làm giả làm nhái. Các quyền tác giả tác phẩm cũng bị xâm phạm. Các cơ chế chính sách còn chưa cụ thể, đặc biệt là thiếu chế tài đủ mức răn đe.

Để đổi mới và hoàn thiện chế độ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, cần phải thúc đẩy, khuyến khích hoạt động sáng tạo ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực để có thể tạo ra một dung lượng tri thức mới, các bằng phát minh sáng chế, các thương hiệu… Đây chính là tài sản quốc gia đáng giá nhất cần phải được bảo vệ.

Hoàn thiện hệ thống thể chế gồm cả các luật lệ liên quan đến sở hữu trí tuệ, không chỉ những luật lệ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, mà cả những luật lệ phát huy trí sáng tạo của người Việt Nam theo hướng hiện đại, nhất là các chế tài ngăn chặn các hành vi vi phạm, hoàn thiện hệ thống tổ chức liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kể cả hệ thống tổ chức nghiên cứu sáng tạo. Thúc đẩy việc nhập khẩu các bằng phát minh sáng chế, cải tiến ứng dụng và thương mại hóa.

Đổi mới chính sách bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, lực lượng sáng tạo quan trọng của đất nước, theo hướng các bằng phát minh sáng chế phải được thương mại hóa, những nhà sáng chế phải được hưởng thù lao xứng đáng, sáng chế của họ phải được bảo vệ, họ phải được tôn vinh.

Sở hữu nước ngoài

Trong các nền kinh tế thị trường hiện đại, người nước ngoài có quyền mua, bán và sở hữu mọi thứ từ các bất động sản, kể cả các cảng biển, sân bay, trừ những công trình liên quan đến an ninh quốc phòng.

Có giai đoạn, những người giàu Nhật Bản quan tâm mua các tài sản ở Mỹ từ các thương hiệu, công nghệ đến bất động sản. Hiện người giàu Trung Quốc cũng đang gia tăng tài sản ở Mỹ. Trung Quốc cũng đã cho phép người nước ngoài mua nhà.

Ở Việt Nam từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài năm 1988, người nước ngoài được đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, được quyền thuê đất có thời hạn, được quyền đầu tư xây dựng các nhà máy công xưởng tại Việt Nam, được quyền kinh doanh trên nhiều lĩnh vực.

Để cho thị trường bất động sản Việt Nam phát triển và thực sự hội nhập quốc tế, Việt Nam cần thực thi những giải pháp sau:

- Cho phép người nước ngoài kinh doanh các loại bất động sản ở Việt Nam.

- Cho phép người nước ngoài được mua và có quyền sở hữu đất và nhà ở.

- Cho phép người nước ngoài (có lựa chọn) được thuê các hòn đảo ven biển Việt Nam cho các mục đích nghỉ dưỡng, du lịch. Canada và Hoa Kỳ đã làm việc này, họ đã có các công ty chuyên kinh doanh các dịch vụ nghỉ dưỡng trên hải đảo.

Các định hướng chính sách về sở hữu và các giải pháp nâng cao nhận thức xã hội

Các định hướng chính sách

Các định hướng chính sách về sở hữu phải theo hướng điều chỉnh các loại hình sở hữu ở Việt Nam phù hợp với các loại hình sở hữu của một nền kinh tế thị trường hiện đại.

Nhà nước phải rút vốn ra khỏi các lĩnh vực kinh doanh kiếm lợi, kể cả các lĩnh vực kinh doanh kiếm lợi nhất, không nên nghĩ là Nhà nước sẽ bị thiệt hại do nhượng lại cho tư nhân kinh doanh trong các lĩnh vực này. Nhà nước không thu lợi nhuận nữa, nhưng Nhà nước sẽ thu thuế.

Khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân, giúp họ trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Cần sửa đổi các luật liên quan đến kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân (Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phá sản, các luật thuế…) theo hướng bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, đảm bảo quyền kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, bảo vệ các lợi ích chính đáng mà họ được hưởng… xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp tư nhân Việt Nam với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Nếu có các ưu đãi là ưu đãi cho các lĩnh vực kinh doanh cần thiết, các địa bàn kinh doanh cần khuyến khích…

Thực thi chính sách nhà nước chuyển quyền phân bổ các nguồn lực cho thị trường. Cần thực hiện rộng rãi chính sách cổ phần hóa không chỉ với doanh nghiệp nhà nước mà cả doanh nghiệp tư nhân, để có thể thúc đẩy xu hướng sở hữu cổ phần sẽ là hình thức phổ biến của nền kinh tế.

Đa dạng hóa chế độ sở hữu đất đai. Để làm điều này, trước hết phải tiến hành quy hoạch đất đai dài hạn với tầm nhìn 100 năm. Đất đai dành cho xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu đô thị, các trường học, bệnh viện, các công sở… phải được xác định đó là thuộc sở hữu nhà nước. Các loại đất còn lại: đất thổ cư thuộc sở hữu cá nhân, đất cho doanh nghiệp - thuộc sở hữu tư nhân, đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể… tất cả các loại hình sở hữu này cần sớm được nghiên cứu xác định.

Nâng cao nhận thức xã hội

Những đổi mới quan điểm trên về chế độ sở hữu cần phải được xã hội am hiểu và thực thi khi đã được luật hóa. Do vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến những kiến thức về các vấn đề liên quan đến những đổi mới chế độ sở hữu trở nên quan trọng và cần thiết.

Chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước hết phải tuân theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại. Trong các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường hiện đại thì nguyên tắc sở hữu tư nhân là nền tảng của nền kinh tế thị trường - là nguyên tắc quan trọng. Xa rời nguyên tắc này, dù chúng ta cố gắng xây dựng nền kinh tế thị trường, thì đó vẫn là một nền kinh tế thị trường khó được quốc tế công nhận. Sở hữu tư nhân hiện đại là chế độ sở hữu được cổ phần hóa, được xã hội hóa rất cao, công khai, minh bạch trên các thị trường chứng khoán. Tính xã hội cao của chế độ cổ phần hóa đã được C. Mác đánh giá rất cao, xem như là chế độ sở hữu quá độ sang hình thái kinh tế - xã hội mới.

Chú thích:

1. C.Mác, Ph.Ăngghen. V.I.Lênin và chính trị kinh tế học, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962, tập 21.

2. Võ Đại Lược, Kinh tế Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011, tr.47.

Võ Đại Lược - Tiến sĩ khoa học, Trung tâm Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

Nguồn Mặt Trận: http://tapchimattran.vn/kinh-te/tiep-tuc-doi-moi-va-hoan-thien-che-do-so-huu-trong-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-53873.html