Phạm Văn Kiêm và trăm năm hầu bóng - nhạc – văn

'Phạm Văn Kiêm và trăm năm hầu bóng - nhạc – văn' do Nhà sách Tri Thức Trẻ Books và Nxb Hội nhà văn ấn hành, là kết quả của 4 năm điền dã bền bỉ của tác giả, TS. Lê Y Linh vào cuối những năm 1980 tại Hà Nội và Nam Định. Bên cạnh tái hiện lại khung cảnh, trình tự trong nghi lễ hầu đồng ở Bắc bộ, tác phẩm cũng tập trung vào nghệ thuật chầu văn, trong đó, phải kể tới công lao rất lớn cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm khi sưu tầm và sáng tác ra các bản hát văn.

Đặt hát văn vào đâu trong dòng chảy âm nhạc truyền thống

Giống như mọi nền âm nhạc trên thế giới, âm nhạc cổ truyền Việt Nam được TS. Lê Y Linh phân ra thành hai dòng khác nhau là âm nhạc chuyên nghiệp và âm nhạc dân gian. Theo đó, âm nhạc chuyên nghiệp khi diễn xướng có sự xuất hiện của các nhạc cụ, ví dụ như nhạc cung đình, nhạc lễ, nhạc đám ma. Dù chủ yếu được lưu truyền bằng hình thức truyền khẩu vẫn vẫn hình thành được hệ thống bài bản và luật lệ tương đối chặt chẽ. Song song với đó, dòng âm nhạc dân gian thường gắn với một chức năng xã hội: nhạc hát chơi, hát đối, hát ru, hát trong lễ hội,… nên được nhân dân hát hàng ngày. Với mỗi sinh hoạt văn hóa lại có một loại hát riêng trên sở là ứng tấu và biến tấu, truyền miệng với sáng tạo tập thể.

Nghi thức hầu đồng được chụp lại dưới thời Pháp thuộc. Ảnh tư liệu

Tuy nhiên, chầu văn là một loại hình âm nhạc đặc biệt hơn thế, nên thật khó để tác giả xếp nó vào dòng nhạc nào theo như hai dòng nhạc trên. Phần vì cung văn – những người hát văn có tính chuyên nghiệp cao trong trình diễn, sao có thể đặt vào thể loại nhạc dân gian. Phần cũng là vì nghi lễ hầu đồng và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ trong một thời gian dài từng bị xem là “không chính thống”, bị xếp ngoài lề xã hội, nên cũng thật đắn đo khi đưa vào thể loại nhạc chuyên nghiệp, đứng ngang hàng với nhạc cung đình.

Nhấn mạnh vào tính chuyên nghiệp của cung văn như đã nói, giống với một số loại nhạc được xếp vào dòng nhạc chuyên nghiệp khác, nghệ thuật chầu văn trong quá trình lịch sử đã hình thành được nhiều bản chầu văn có tính cố định. Các bản chầu văn được sưu tầm lại ngày nay là kết quả của quá trình sáng tác các cung văn từ hàng trăm năm trước. Có những tập chầu văn được viết lại bằng chữ Nôm, và ngay từ ngày chữ Quốc ngữ ra đời đã có nhiều tập văn được xuất bản. Tuy vậy, vẫn có những bản chầu văn vô tình bị mai một đi mất, do chỉ được lưu giữ bằng hình thức truyền miệng từ đời này sang đời khác.

Một vài cuốn sách chầu văn được xuất bản dưới thời Pháp thuộc. Ảnh tư liệu

Động Đình Thánh Thủy Văn, in trong Văn chầu - Các bài văn chầu đủ các vị, xuất bản năm 1929, trích trong tác phẩm.

Tất nhiên, trong giới hành nghề, không phải cung văn nào cũng có thể sáng tác được. Việc có khả năng sáng tác và hát lại những bản có sẵn nhằm phân biệt giữa cung văn thường, mà cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm gọi là thợ hát với những cung văn giỏi. Nghệ nhân cũng từng phê phán những người hát văn theo kiểu học lỏm, “ăn cắp văn của người khác”, “nghe mấy điệu văn rồi cũng đòi hát văn”.

Đối với những cung văn tài hoa, trong mỗi giá hầu đồng, họ còn có thể ngẫu hứng xuất khẩu… thành văn, thành nhạc. Dĩ nhiên, khả năng ứng tác này phải dựa trên cơ sở về sự hiểu biết của làn điệu, lòng bản, và thần tích của các vị thánh, mà tuyệt nhiên không thể sáng tác xuông. So với nhiều loại hình nghệ thuật khác, thì Lê Y Linh đánh giá “còn giữ lại được truyền thống ứng tác và ứng đối dân gian cho đến nay”.

Tác phẩm Phạm Văn Kiêm và Trăm năm Hầu bóng-Nhạc-Văn, tác giả Lê Y Linh, do Nhà sách Tri Thức Trẻ Books và NXB Hội Nhà Văn ấn hành.

Nghe chầu văn, phán đoán thánh

Chầu văn được nghệ nhân Phạm Văn Kiêm định nghĩa là “nhạc thiêng, nhạc lễ”. Tức là nghệ thuật chầu văn bước đầu được nhìn nhận là một loại hình gắn bó mật thiết với nghi lễ hầu đồng, không có lễ thì ắt hẳn là không nên nhạc cho được.

TS. Lê Y Linh, tác giả của cuốn Phạm Văn Kiêm và Trăm năm Hầu bóng - Nhạc - Văn.

Hay chính tác giả cũng nhận định: “Chính chức năng tôn giáo (thực hành nghi thức hầu đồng) đã góp phần bảo tồn và gìn giữ nghệ thuật hát văn”, dù cho sau này việc hát văn không chỉ gắn với duy nhất sinh hoạt tín ngưỡng, mà có cả những bài hát chơi dùng trong sinh hoạt thường nhật.

Về việc gắn với tín ngưỡng, chầu văn được tác giả Lê Y Linh đánh giá là đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cấu trúc và quá trình biến đổi điện thần hầu bóng. Cụ thể là dựa so sánh, đối chiếu giữa các bản chầu văn, ta có thể thấy ở một thời điểm nào đó, trong hệ thống tín ngưỡng Tứ Phủ thờ phụng những vị thánh nào, khoảng thời gian trước và sau đó có sự thay đổi, khác biệt như thế nào.

Cho nên, việc viện dẫn nguồn khi in là không thể thiếu. Dẫn nguồn sẽ giúp cho độc giả có những thông tin rõ ràng trong từng thời kỳ về điện thần, từ đó có thêm thông tin về thực hành nghi lễ, những người đã có công sưu tầm, công bố, cũng như những đóng góp về sáng tác của các cung văn nếu có. Ngoài ra, một vị thánh có thể có nhiều bản văn, hoặc một bản văn cho một vị thánh có nhiều dị bản khác nhau ít nhiều hoặc thậm chí khác hẳn nhau.

Phạm Văn Kiêm – bậc thầy của các cung văn

Nhắc đến chầu văn thì không thể không nhắc tới những công lao của cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm, là người Hưng Yên. “90% văn cung văn hát hiện nay là của ông Kiêm”, hẳn sẽ không phải quá lời nếu xem đây là một lời khen mà các học trò dành cho người thầy đáng kính của mình. Bởi ông Phạm Văn Kiêm vừa sưu tập văn cổ, vừa sáng tác, tập hợp và thu thanh, cũng như truyền lại những gì ông đã có cho hậu thế.

Tập hợp các bản văn tản mạn khắp nơi để xuất bản có lẽ không còn là việc quá khó ngày nay, nhưng điểm khó là làm sao xác định thông tin chính xác về nguồn gốc các bản văn. Bởi điều này có tầm quan trọng lớn đối với người thực hành và người nghiên cứu trên nhiều phương diện. Sinh thời, ông Kiêm từng phê bình việc xuất bản các bản văn, có vài chục bản mà góp nhặt lung tung, không đâu vào với đâu.

Cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm và bản chầu văn kinh điển. Ảnh Trung tâm Âm nhạc truyền thống Thăng Long

Ý thức được sự tản mạn trong hệ thống các bản văn, ngay từ khi còn trẻ, ông đã đã sưu tầm văn cổ từ các cụ nghệ nhân thế hệ trước, dịch lại từ bản Hán – Nôm. Từ đó, ông lấy cảm hứng, tích, ý từ văn cổ để cải biên và sáng tác. Đây là quá trình hoàn thiện nhất, minh chứng vai trò quan trọng của ông Kiêm, là người từ sưu tập nâng lên tầm giữ gìn, bảo tồn, lan tỏa và phát triển nghệ thuật hát văn, theo nhận định của TS. Lê Y Linh.

Mặc dù Phạm Văn Kiêm thuộc rất nhiều bản chầu văn, cũng để lại nhiều cuốn chép văn và nháp. Nhưng đáng tiếc, do một số lý do, những cuốn văn của ông vô tình bị thất lạc ngay từ khi ông vẫn còn sống. Trong số những sáng tác của cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm, ông không chỉ để lại những bản chầu văn phục vụ cho nghi lễ hầu đồng, mà ông còn có những bài hát khác như: Xin nghỉ việc, Hút thuốc trong màn nhớ bạn,…

Cho đến nay, kho tàng sưu tầm và sáng tác chầu văn của cố nghệ nhân kèm với băng nhạc thu thanh đã góp phần trợ lực cho các nhà nghiên cứu xác định được hệ thống điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ. Qua những phân tích và tổng kết trong tác phẩm, TS. Lê Y Linh đề cao vai trò tổ nghề của cố nghệ nhân Phạm Văn Kiêm đối với các cung văn đương thời.

Nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Lê Y Linh là con gái cố nhạc sĩ Hoàng Vân. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Lý luận âm nhạc tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), cô từng công tác tại Ban Nghiên cứu, Viện Âm nhạc và Múa (nay là Viện Âm nhạc). Đầu những năm 1990, Lê Y Linh sang Pháp tu nghiệp và làm nghiên cứu sinh về âm nhạc dân tộc.

Cô hiện là cộng tác viên nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu lịch sử cận đại và hiện đại - Trường Cao đẳng Sư phạm Pháp (IHMC-ENS) và Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CASE - CNRS), là thành viên Hội Âm nhạc dân tộc học Pháp (SFE).

Đoan Túc

Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/pham-van-kiem-va-tram-nam-hau-bong-nhac-van-43614.html