Nắm cơm của mẹ

Trong trái tim của mỗi người con đều mang bóng hình của mẹ cha. Chúng ta nên vóc nên hình, trưởng thành được là nhờ vào tình yêu thương và sự hy sinh vô bờ bến của đấng sinh thành.

Chiều nay, Hường mời bạn nghe câu chuyện của Ngọc Thanh từ Đà Lạt, Lâm Đồng kể về những ký ức yêu thương về mẹ.

Sáng nay ngồi trên xe nhìn ngắm phố phường, bảng hiệu “Cơm kẹp” bỗng đập vào tầm mắt tôi. Tuy chưa ăn món của cửa hiệu này nhưng tôi đã đoán ngay được cách chế biến, cơm nấu vừa ăn không quá khô hay quá nhão. Lúc còn ấm đem ép lại cho chặt. Rồi kẹp với thức ăn khô như gà rán, thịt chiên, dăm bông, thêm ít rau, vài món đồ chua. Nói rành rẽ thế không phải vì tôi là đầu bếp giỏi giang, mà vì món ăn tương tự vậy do mẹ tôi làm đã theo tôi suốt bảy năm thời trung học và mùi vị của nó thì theo tôi đến tận bây giờ…

Thuở bé nhà tôi nghèo lắm, nhà bốn người mà chỉ có mẹ tôi là lao động chính. Sức khỏe của mẹ tôi kém từ nhỏ, nhưng mẹ phải gồng gánh cả gia đình, chăm sóc và nuôi hai anh em tôi ăn học chỉ với hai bàn tay trắng, không có bất kì mảnh vườn miếng ruộng nào.

Ngày đó, bữa cơm của gia đình tôi, khi rau khi cháo, có gì ăn đó, được ba bữa là may lắm. Tôi thích nhất là mùa mưa, rau cỏ sẵn có, bữa ăn nhờ vậy mà được cải thiện. Trước nhà tôi có hàng rào trồng bằng cây me thấp tè, mưa xuống đọt non lún phún. Đến bữa cắp cái rổ hái lá me non về nấu nồi canh chua với cá khô lẹp, con cá mỏng tang nhìn thấy cả xương, vậy mà bát canh ngọt lịm. Hoặc ra sau nhà ngắt mấy ngọn rau lang xào tỏi, thêm vài con cá mắm, là có bữa cơm ngon lành.

Ngày mưa đất ẩm, nấm mọc trong mấy bụi chuối, nhổ về nửa kho tiêu, nửa nấu canh với lá bình bát mọc dại bên rào, thơm ngon giòn ngọt. Dây bình bát ở quê tôi khác với cây bình bát ở miền tây, lá nấu canh ăn rất ngọt, trái chín chuyển màu từ xanh thẳm sang đỏ rực, vị chua chua. Lúc nhỏ chúng tôi không có quà bánh gì, thường hái mấy trái đỏ mọng tranh nhau ăn, ăn chán rồi đem ra làm đồ hàng. Những ngày nghỉ học, anh em tôi theo nhà hàng xóm đến ruộng đã gặt xong, bắt cua đồng hoặc mấy con cá lòng tong về làm món mặn. Có hôm bị cua kẹp sưng ngón tay, đau chảy nước mắt.

Hồi đấy cứ đến mùa gặt, mẹ mua lúa về trữ trong nhà, để khi đau ốm không đi làm được, chúng tôi vẫn có gạo mà ăn. Mẹ tôi là thế, lo gần lo xa, lo mưa lo nắng, trăm bề đều lo.

Mẹ vất vả một đời nên mẹ luôn chắt chiu, đói khổ mấy cũng cố gắng cho hai anh em đến trường. Lúc ấy chúng tôi thuộc diện nghèo nên học phí được giảm một nửa, vở viết thì dùng phần thưởng của trường lớp cũng đủ dùng, sách thì anh học trước để lại cho em. Chúng tôi không học thêm môn gì, tự học ở nhà. Quần áo mặc lại của chị em họ ở thành phố cho đỡ tốn kém. Thế mà cứ đến mùa tựu trường, tôi thấy mẹ thêm hao gầy, mất ăn mất ngủ.

Cấp một hai anh em tôi học ở trường làng. Từ khi học mẫu giáo, mẹ tôi đã dành thời gian dạy chúng tôi biết đọc biết viết, làm toán cộng trừ. Lên cấp hai, chúng tôi thi đậu vào trường thị xã. Từ nhà đến trường khoảng năm cây số. Thời đó học sinh chỉ học một buổi, tôi học lớp chuyên toán nên học hai buổi, sáng học theo chương trình, chiều học nâng cao theo tiêu chuẩn của lớp chuyên.

Nhà xa, học xong buổi sáng tôi ở lại trường, đợi chiều học tiếp. Trường tôi học sinh mặc áo dài từ lớp sáu. Lúc ấy người tôi nhỏ xíu, thụng thịnh trong bộ áo dài của người khác để lại cho, bước đi còn sợ vấp, vậy mà phải chạy chiếc xe đạp yên cao, chống chân không tới. Tôi buộc tà áo dài lại, dùng ghim túm ống quần cho bớt rộng, hì hụi trèo lên xe. Mỗi sáng đi học, mẹ vịn xe cho tôi leo lên, rồi đẩy lấy đà cho tôi chạy. Lúc về thì có bạn giúp. Hôm nào đi giữa đường mà gió to quá, lảo đảo tay lái, tuột khỏi yên xe là một phen khổ sở... Hình ảnh chật vật này trái ngược với hình ảnh nữ sinh mặc áo dài trắng thướt tha, giắt nhành phượng đỏ đạp xe đi về trong phim ảnh.

Buổi trưa học xong, đợi học sinh lớp sáng về hết tôi giở cơm ra ăn, rồi tựa vào ghế đá sân trường nghỉ một chút, đợi đến đầu giờ chiều học tiếp. Tôi nhớ thời đó, một dĩa cơm khoảng hai ngàn đồng. Trong khi, khẩu phần của cả nhà một ngày chỉ có bốn hoặc năm ngàn đồng thì làm gì có tiền mà ăn hàng ăn quán. Thế là mẹ đồng hành cùng chúng tôi đi học bằng những nắm cơm.

Mỗi buổi sáng lúc hai anh em dậy sớm học bài thì mẹ thức dậy, nhóm bếp nấu cơm. Nhà tôi không có vườn, không có sẵn củi. Những ngày nghỉ học, anh em tôi tranh thủ vào rừng cao su nhặt củi về, nên mẹ dùng rất tiết kiệm. Khi nồi cơm đã yên vị trên bếp lửa bập bùng, mẹ ra sau nhà rọc vài miếng lá chuối, đem hong trên nắp nồi cho hơi héo. Cơm chín, mẹ bới ra tấm lá chuối đã lau sạch, cho thức ăn vào giữa, phủ cơm rồi ép lại chặt tay, gói vuông vức trông như chiếc bánh chưng vậy. Thức ăn thì vô chừng, lúc thì cá khô, khi thì mắm ruốc xào xả ớt, món này mẹ tôi làm ngon tuyệt. Có ngày mẹ kèm cho mỗi đứa một trái dưa leo ăn cho mát ruột.

Ảnh minh họa

Mẹ còn chu đáo chuẩn bị thêm cho mỗi đứa một chai nước. Lúc bấy giờ làm gì có được chai đựng nước đẹp như bây giờ. Mẹ lấy chai dầu ăn, đem súc sạch, ngâm nước lâu ngày cho bay hết mùi rồi rót nước vào. Cái nắp chai dầu vàng chóe cứ ngoi lên khỏi miệng cặp, khiến tôi cứ ngại ngùng với chúng bạn. Mặc dù ý thức được nhà mình nghèo, cần tiết kiệm, phải mang cơm nước theo đi học, phải nghỉ trưa trong trường, nhưng tuổi nhỏ mặc cảm không tránh được.

Vài phụ huynh của các bạn trong lớp biết chuyện, thương và nói tôi về nhà nghỉ trưa cho đỡ mệt. Tôi có về nghỉ trưa ở hai gia đình tốt bụng của bạn học năm lớp tám và lớp mười hai. Chỉ tá túc chỗ ở chứ không ăn cơm. Mẹ vẫn gói cho con gái nắm cơm của mình dặn dò: “Ngon dở gì cũng là của mình, mang ơn người ta vậy đủ rồi, đừng mang ơn nhiều thành nợ rồi khó trả nghe con”.

Câu chuyện vượt khó nuôi con ăn học của mẹ và câu chuyện vượt khó học giỏi của chúng tôi đã trở thành đề tài trong các lần họp phụ huynh, mấy cô dì gặp mẹ thì bắt chuyện hỏi han khen ngợi. Mỗi lần như thế tôi thấy mẹ vui lắm, tự hào lắm. Có lẽ nhờ vậy mà tiếp thêm cho mẹ nghị lực để nuôi hai anh em tôi vào đại học, để bắt đầu con đường sự nghiệp của mình.

Cứ thế, đều đặn tuần sáu ngày, ròng rã suốt bảy năm trời, nắm cơm của mẹ đồng hành cùng chúng tôi đến trường. Anh em tôi nên vóc nên hình, trưởng thành là nhờ nắm cơm ấy, học được bằng này bằng nọ cũng nhờ nắm cơm ấy.

Sau này đi làm, anh em tôi hay đưa mẹ ra ngoài ăn món này món nọ, nhưng thỉnh thoảng vẫn thèm mùi vị của cơm nắm, của món ruốc hay món cá khô mẹ làm. Cái mùi cơm quyện mùi lá thơm lừng ấy vẫn vấn vít tôi, khiến tôi nhớ như in, nhớ những giọt mồ hôi, nước mắt, những hy sinh một đời của mẹ, của cái thân hình gầy ốm bệnh tật, nhịn ăn nhịn mặc cho con đến trường. Mẹ đã gói cả tình thương yêu vào trong những nắm cơm đó.

Ảnh minh họa: Đinh Văn Linh

Rồi sau này, chúng tôi có công danh sự nghiệp, mẹ vẫn chắt chiu từng món nhỏ nhặt như một thói quen đã ăn vào xương tủy. Cái áo mặc đến rách chưa chịu bỏ, cắt chỗ lành ra làm giẻ lau, cái túi nilon sạch dành lại để khi cần có cái mà đựng đồ. Gia đình chúng tôi đã thành nếp, không bỏ thức ăn thừa, nấu dư thì cố ăn hết chứ không bỏ phí. Câu cửa miệng của mẹ: “Hồi đó mà có được vậy ăn là may mắn lắm. Đồ ăn bỏ thì tội lắm.”

Mẹ tôi ngày càng già yếu. Bệnh tật từ nhỏ cộng với sự khổ cực bao năm trời khiến tuổi già của mẹ bị hết bệnh này đến bệnh khác hành hạ. Ép mẹ ăn món gì, mẹ cũng chép miệng: “Lúc trẻ ước có cái mà ăn, giờ có thì không ăn được.”

Giờ mẹ tôi đã về với cát bụi. Rũ bỏ mọi vất vả nhọc nhằn của một kiếp người. Thỉnh thoảng, tôi làm cơm nắm - món cơm gần với món “Cơm kẹp” cả nhà cùng ăn, để nhớ về những ngày xưa khổ cực, để nhớ mẹ sống một đời giản dị mà vô cùng vĩ đại trong tâm tưởng của con cháu chúng tôi./.

Nguồn Hà Nội TV: https://hanoionline.vn/nam-com-cua-m-224089.htm