'Hà Giang ơi! Sao mà nhớ thế'

Từ TP Hà Giang, vượt 200 cây số bằng xe máy, qua Quản Bạ đi Yên Minh, Đồng Văn, đến thị trấn Mèo Vạc, chinh phục cả Mã Pí Lèng, tôi chợt nghĩ những cung đường chân mây này chỉ có thể là cái vẫy bút của họa sĩ thần tiên trong men say rượu ngô.

Dốc Thẩm Mã trên con đường Hạnh Phúc. Ảnh: VIỆT AN

Núi đá và phận người

Một cánh đồng núi mãn nhãn thị giác, một bữa tiệc đá thỏa mãn tâm hồn. Núi tai mèo nhọn hoắt. Núi miền biên viễn không thể chỉ hiền hòa như miền Trung quê tôi. Núi là ngọn giáo, tấm khiên, che chắn Tổ quốc. Khi đứng dưới chân cột cờ Lũng Cú, bỗng thấy trong sự hùng vĩ có một tình cảm bình dị mà thiêng liêng. Núi cũng như trò chơi cắt dán, xếp hình của trẻ con, nhọn hoắt, trắc trở mà vẫn ngây thơ. Là những tấm bìa in lên giữa nền trời. Tầng tầng lớp lớp như một gia đình núi bao thế hệ. Bên dưới vực sâu, dòng sông Nho Quế, không thể nào xanh hơn thế.

Cao nguyên đá Hà Giang là nơi cư trú của 17 dân tộc anh em, trong đó chủ yếu là người Mông. Cây cối phải mãnh liệt mới bật ra được từ đá. Người cũng túa ra từ đá. Không thấy nhà đâu. Chỉ thấy những đôi chân đi bộ trên sườn núi nghiêng. Họ đã đi bộ rất xa từ những ngôi nhà cách nhau mấy quả núi của mình. Đôi chân ấy dường như có chất kết dính với đá. Đôi chân chắc như gỗ nghiến. Họ lặng lẽ gùi đất đổ vào hốc đá để gieo trồng từng hạt ngô, hạt bí… Tôi mới hiểu tại sao “không có đỉnh núi nào cao hơn đầu gối người Mông”.

Tôi đã lên Khau Vai, nơi nổi tiếng với chợ tình, đến điểm trường xa nhất Trù Lũng Trên A. Các em nơi đây quanh năm ăn mèn mén (bột ngô) vì chỉ có cây ngô mới trụ được với nơi khắc nghiệt này. Cô giáo Lò Thị Viễn cho chúng tôi biết: “Nước ở đây rất hiếm, bà con phải hứng nước mưa để sinh hoạt. Không có nhiều củi để làm chất đốt giữa cái giá lạnh vùng cao”. Bữa cơm nếu có là một hạnh phúc. Tôi chợt nhớ, Xuân Diệu từng viết “Cũng như xa quá nên ta chỉ/ Thấy núi yên như một tấm bìa”. Nhưng đằng sau núi là những thân phận con người. Ngay cả các thầy cô giáo, có lẽ không từ nào chính xác hơn từ “cắm bản” mới “gắn chặt” được vào cao nguyên đá này trong hành trình gieo chữ vùng cao.

Núi đôi tại thung lũng huyện Quản Bạ. Ảnh: VĂN THIỆU

Con đường Hạnh Phúc

Cả cái cung đường chân mây ngỡ của thần tiên cũng là con đường “hoa và máu” của đời thực. Hàng ngàn dân công địa phương và thanh niên xung phong đã ra sức trên 2 triệu ngày công, đào đắp di chuyển trên 3 triệu m3 đất đá, gánh từng gàu nước. Trên bia đá còn khắc ghi, tưởng niệm 14 liệt sĩ:

“Hôm nay tôi nằm lại mảnh đất

Đồng Văn - Mèo Vạc này

Các đồng chí nếu có về

xứ Lạng. Hãy nhớ tới tôi”

(Lương Quốc Chanh)

Con đường mà Bác Hồ đã đặt tên Hạnh Phúc. Qua rất nhiều khúc cua tay áo, người bạn chở tôi hài hước bảo rằng: “Hôm nay “ăn cua” nhiều hơn ăn cơm”. Chúng tôi nhiều lần phải ồ, à lên vì vẻ đẹp hùng vĩ mà trữ tình của tự nhiên.

Vào mùa này, ngô đã héo nhưng bù lại những cánh đồng tam giác mạch đang nở rộ. Cây cải, một thời từng được trồng chung với thuốc phiện, nay đứng một mình vẫn mạnh mẽ khoe sắc vàng. Ngoài sắc màu thiên nhiên, còn có sắc màu váy áo rực rỡ của người Lô Lô, người Mông, người Dao…

Có lẽ đây là sự cân bằng hợp lý. Trong sắc màu đơn điệu của đá, con người đã dồn hết vẻ sặc sỡ lên váy áo, làm dịu đi cuộc sống nhọc nhằn.

Trên đường đi, chúng tôi gặp các chị gùi cỏ thông đất xanh rì lút quá đầu người. Sức nặng của cuộc sống không dồn lên đôi vai như người miền xuôi, mà dồn lên cả tấm lưng. Tấm lưng gùi cỏ, gùi củi, gùi ngô và cả gùi con... Cũng như núi đã là một tấm lưng khổng lồ gùi lên mình biết bao biến thiên của lịch sử.

Chúng tôi gặp những cái vẫy tay chào của các em bé đồng bào. Các em đứng cheo leo trên những vệ đường, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Nó khiến tay lái của chúng tôi rợn ngợp nhưng các em rất bình thản. Như cách vũ trụ đã tự cân bằng mọi thứ. Hạnh phúc cũng là sự cân bằng.

Du khách chụp ảnh với các em bé người Mông trên cánh đồng tam giác mạch. Ảnh: VIỆT AN

Giữ bản sắc văn hóa đá

Khi ngồi nghỉ ở cổng trời Quản Bạ, chúng tôi ăn cơm lam, ngô khoai nướng, bánh sắn chấm muối chẩm chéo, là những món đặc sản của đồng bào nơi đây. Chàng trai người Nùng mặc trang phục dân tộc mình, bán hàng cho chúng tôi có vẻ đẹp của một tài tử điện ảnh. Giữa một khung cảnh núi đá, con người địa phương và ẩm thực địa phương thật hợp tình. Chỉ có điều anh lại mở một bản nhạc “hot trend”.

Một thành viên trong đoàn chúng tôi bảo rằng: “Anh ơi! Anh hãy mở một bài hát của dân tộc mình sẽ hay hơn nhiều”. Chàng trai người Nùng cười rất hiền và anh chuyển sang bài “Hà Giang ơi” của Quách Beem. Và tôi đã lấy một câu để đặt tên cho bài viết này. “Hà Giang ơi! Sao mà nhớ thế! Khau Vai về ai nhớ tương tư”!

Bà con đã có điện thoại thông minh, kết nối nhiều hơn với thế giới bên ngoài. Trên dốc Thẩm Mã, người ta mở loa bán hàng át cả tiếng sáo trong trẻo của 2 em trai ngồi vắt vẻo trên mỏm đá. Dừng chân nghỉ ở Yên Minh, chị chủ nhà nghỉ người Hoa nói với chúng tôi: “Người ta đã đập nhà trình tường để xây nhà gạch. Có tiền thì họ xây thôi, chứ ở nhà trình tường bị chuột phá lắm”. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa chưa bao giờ là dễ.

Trên đường lên Lũng Cú, khi đi qua cây nghiến 250 tuổi, còn gọi là cây cô đơn, vì nằm một mình, tôi chợt nghĩ nhờ du lịch, cây nghiến đã trở nên nổi tiếng và không còn cô đơn. Nhưng cây nghiến có nhớ rừng nghiến Cán Tỷ không? Cũng như “Con cá sống dưới nước. Con chim bay trên trời. Người Mông sống ở núi”; núi đá, dù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng đồng bào vẫn bám trụ và không ngừng thích nghi. Bởi đá là linh hồn, là cuộc sống, nếu mà xa sẽ trở thành cây nghiến cô đơn. Tôi đã xa Hà Giang cả tháng, mà trong suy tưởng còn chập chờn núi đá trùng điệp.

Núi đá, dù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng đồng bào vẫn bám trụ và không ngừng thích nghi. Bởi đá là linh hồn, là cuộc sống.

THÙY LINH

Nguồn Phú Yên: https://baophuyen.vn/141/314064/-ha-giang-oi-sao-ma-nho-the.html