GÓC NHÌN: 'VĂN HÓA TỪ CHỨC' - GỢI Ý CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

Quy định người được lấy phiếu tín nhiệm có quá nửa đến dưới 2/3 tổng số phiếu 'tín nhiệm thấp' có thể xin từ chức là một trong những điểm mới đáng chú ý của Nghị quyết số 96/2023/QH15 của Quốc hội. Để có góc nhìn sâu sắc hơn về văn hóa từ chức, Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết: 'Văn hóa từ chức: Gợi ý cơ chế, chính sách cho Việt Nam' của PGS. TS Bùi Hoài Sơn- Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.

Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV đã hoàn thành một trong những công việc rất quan trọng là thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua hoạt động lấy phiếu tín nhiệm với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Việc lấy phiếu tín nhiệm là việc làm hết sức hệ trọng trong hoạt động giám sát của Quốc hội.

Trên cơ sở cụ thể hóa Quy định số 96-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 96/2023/QH15 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội và Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

So với Nghị quyết số 85/2014/QH13 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn trước đây, Nghị quyết số 96/2023/QH15 lần này có những nội dung mới khác biệt.

Điểm mới quan trọng nhất là Nghị quyết số 96/2023/QH15 quy định rất rõ hệ quả kết quả lấy phiếu của việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm với nội dung rất căn bản. Đó là, những người được lấy phiếu tín nhiệm có quá nửa đến dưới hai phần ba tổng số phiếu đánh giá “tín nhiệm thấp” có thể xin từ chức; trường hợp không xin từ chức thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm tại kỳ họp đó hoặc kỳ họp gần nhất.

Trường hợp người được lấy phiếu tín nhiệm có từ hai phần ba tổng số phiếu đánh giá “tín nhiệm thấp” trở lên thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu người đó để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn có trách nhiệm trình Quốc hội tiến hành miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm tại kỳ họp đó hoặc kỳ họp gần nhất.

Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện của văn hóa loài người trong xã hội có giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, các giải cấp cầm quyền đã thay nhau sử dụng thứ quyền lực đặc biệt này để duy trì sự thống trị và phát triển của xã hội. Văn hóa chính trị không chỉ tác động đến việc tổ chức xã hội, định hướng điều chỉnh các hành vi và quan hệ xã hội mà đồng thời còn thúc đẩy hoạt động của cá nhân, giai cấp trong chính trị. Mặt khác, văn hóa chính trị còn là một nhân tố không thể thiếu để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động chính trị.

Trong văn hóa chính trị, có một khái niệm mà bất cứ ai cũng nên biết, nên hiểu và có một thái độ đúng đắn đó là “văn hóa từ chức” - một bộ phận của văn hóa chính trị vì nó có gắn liền với việc kiểm soát và thực thi quyền lực chính trị. Từ đó, “văn hóa từ chức” trở thành nhân tố có tác động mạnh mẽ tới đời sống chính trị của đất nước.

“Từ quan”, “từ chức” là hành vi từ bỏ chức vụ của quan lại ngày xưa và cán bộ ngày nay. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, không ít vị quan vì liêm sỉ mà từ bỏ chức tước mình đang có, về quê sống ẩn dật. Nay ở thời đại mới, từ quan được hiểu theo nghĩa mới là từ chức.

“Từ quan” hay “từ chức” là hai cách gọi khác nhau trong các thời kỳ lịch sử. Từ quan là khái niệm được sử dụng trong thời kỳ phong kiến khi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước phong kiến nằm trong tay vua chúa, quan lại. Trong xã hội ngày nay, khái niệm từ quan được thay bằng từ chức bởi bộ máy quan lại ngày xưa với bộ máy lãnh đạo trong xã hội chúng ta hiện nay khác nhau về bản chất. Xưa treo ấn từ quan vì không muốn làm trong bộ máy cai trị thực dân, phong kiến, vì không muốn những hành động của mình gián tiếp hay trực tiếp làm khổ dân. Ngày nay, từ chức vì những vi phạm bản thân hoặc thuộc trách nhiệm quản lý, từ chức vì không còn xứng đáng đứng trong bộ máy công quyền phục vụ nhân dân, từ chức vì nhân dân không còn tin tưởng nữa.

Điểm chung là từ chức ngày nay hay từ bỏ quan trường ngày xưa đều thể hiện yếu tố chủ quan, sự chủ động của bản thân mà xin rời vị trí đang nắm giữ. Như thế, hành động đó thể hiện được lòng tự trọng, danh dự cá nhân hay nói cách khác là “giữ liêm sỉ”, nó khác với việc bị áp dụng biện pháp cách chức, buộc thôi việc. Bởi thế, thời kỳ nào thì hành động chủ động rời bỏ địa vị, chức quyền khi nhận thấy mình không còn xứng đáng nữa, vẫn luôn là hành động được đề cao, ngợi ca.

Hình minh họa.

“Văn hóa từ chức” từng được bàn luận sôi nổi trong chính trường Việt Nam nhiều năm qua. Chưa bao giờ chúng ta lại thấy “từ chức” lại trở thành một câu chuyện được bàn tán sôi nổi và rộng rãi đến vậy. Trong nhà, ngoài ngõ, đâu đâu cũng nghe thấy chuyện người này, người kia “nên từ chức”, “phải từ chức”, “sao lại từ chức?”... những câu chuyện như vậy là tín hiệu tích cực của một giai đoạn chúng ta ý thức nhiều hơn về trách nhiệm của cán bộ công chức, rộng hơn là trách nhiệm đạo đức đối với công việc. Khi mọi người cùng bàn về một vấn đề, chứng tỏ thứ nhất là điều đó quan trọng; thứ hai là điều đó thể hiện những chuyển biến trong nhận thức và hành động về vấn đề đó.

Chúng ta thường quen với một lối suy nghĩ rằng, không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo khác, ý chí phấn đấu làm quan hay có thành tích trong chính trị, thể hiện chí công danh của nam nhi được xem là một trong những dấu ấn thành công quan trọng nhất của nhiều người. Vì thế, thay vì thước đo thành đạt là ở bất kỳ một lĩnh vực gì cũng được, như có thể là một thương nhân thành đạt, một cầu thủ bóng đá giỏi, một nghệ sĩ tài năng, một nhà khoa học có nhiều cống hiến, một công nhân có tay nghề cao... thì ở ta, việc có được một địa vị chính trị vẫn được xem như một ưu tiên, thậm chí là mơ ước, biểu tượng của sự thành đạt hơn so với các nghề nghiệp khác. Hơn thế, như một lẽ thường, sự nghiệp chính trị thì thường có lên chứ ít ai xuống chức (hoặc ít ra cũng là chuyển ngang). Suy nghĩ và thói quen ấy giờ đây đã đến lúc phải thay đổi.

Lâu nay, cán bộ xin từ chức vì mất uy tín ở nước ta rất hãn hữu; phần lớn từ chức là để xin thôi việc, vì lý do sức khỏe, về quê hợp lý hóa gia đình… Còn từ chức do năng lực quản lý có hạn, do tín nhiệm thấp gần như không có. Một nền hành chính công hiệu quả, minh bạch phải được bắt đầu bằng những quy trình, quy định minh bạch, cụ thể. Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc xây dựng đất nước, hiện thực hóa khát vọng phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc. Để làm được điều đó, một trong ba khâu đột phá được nhắc lại nhiều lần là chất lượng nguồn lực, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Dù có nhiều thành công trong công tác cán bộ, những rõ ràng, trong một số trường hợp cụ thể, người dân vẫn băn khoăn rất nhiều về những trường hợp dường như có dấu hiệu của bổ nhiệm sai, ngồi nhầm chỗ. Quy trình bổ nhiệm 5 bước dù có chặt chẽ đến mấy vẫn không thể lường trước những phức tạp của cuộc sống, mà ngay đến cả chatGPT dù có tiến bộ đến mấy cũng không thể tính toán hết được.

Trong thời gian vừa qua, chúng ta cảm thấy vô cùng đau sót khi mất mát quá nhiều cán bộ qua cơn bão càn quét của Việt Á, AIC, chuyến bay giải cứu,... Có nhiều cán bộ thoái hóa, biến chất, bị kim tiền chi phối, nhưng cũng có cán bộ phải đứng ra chịu trách nhiệm chính trị, muốn thể hiện tiết tháo về đạo đức của mình đối với nhân dân, với đất nước. Khi việc tạo môi trường để cán bộ không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng chưa có được sự đồng bộ do điều kiện và hoàn cảnh của đất nước thì rõ ràng đạo đức của người cán bộ phải trở thành hệ điều tiết, định hướng giá trị cho mỗi người. Pháp luật thì ở xa nhiều khi không thấy rõ, trong khi đó, đạo đức luôn ở gần, có thể ngay lập tức điều tiết hành vi cho mỗi cá nhân, vì thế, trách nhiệm đạo đức đối với công việc và trước nhân dân của người lãnh đạo là rất cần thiết để tạo ra uy tín, và từ đó là hiệu quả công việc của chính họ.

Nói như vậy để chúng ta thấy rằng, quy định về lấy phiếu tín nhiệm, làm cơ sở cho việc đánh giá cán bộ, cho việc từ chức có vai trò quan trọng và phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Khi dư luận xã hội còn chưa thôi thắc mắc về những lý do của việc từ chức, cũng như quán tính truyền thống luôn xem việc từ chức như một điều gì đó không đúng, chưa phải, dẫn đến việc từ chức trở thành gánh nặng của tất cả các bên liên quan, thì việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, góp phần đánh giá uy tín và kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, giúp họ thấy được mức độ tín nhiệm của mình để "tự soi", "tự sửa", tiếp tục phấn đấu, rèn luyện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, cũng như làm cơ sở để xem xét đánh giá cán bộ, công chức, góp phần tăng cường niềm tin của nhân dân.

Trước hết và căn bản, từ chức thuộc về văn hóa, về đạo lý của người làm quan, thể hiện tính liêm sỉ và giá trị công bộc. Văn hóa từ chức là một truyền thống, giá trị hoặc tiêu chuẩn của một tổ chức hoặc xã hội, mà người có trách nhiệm chính trị hay công việc có thể xin thôi việc nếu họ tin rằng họ đã không thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ một cách đầy đủ hoặc hiệu quả. Việc từ chức được coi là một hành động có trách nhiệm, chỉ làm khi người đó không còn có khả năng hoặc không đủ năng lực để tiếp tục trong vị trí của mình và có thể gây tổn thất cho tổ chức hoặc xã hội.

Văn hóa từ chức được coi là một phần quan trọng của nền văn hóa chính trị của một quốc gia và đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ các giá trị của tổ chức hoặc xã hội. Như vậy, giờ đây, thay vì một hành động mang tính cá nhân, chịu sự đánh giá khắt khe và khác nhau từ xã hội và thậm chí là mỗi thành viên trong gia đình, khiến cho việc từ chức trở nên khó khăn, chúng ta cần hình thành nên một văn hóa từ chức để hành động này trở thành một hành động, phẩm chất của cán bộ trong nền hành chính công hiện đại. Chúng ta cần phải hiểu, từ chức là một nét đẹp của văn hóa chính trị. Phải bằng mọi cách đưa được văn hóa từ chức vào đời sống xã hội và chính trị của đất nước. Ở nước ta, từ xưa các cụ đã coi việc “treo ấn từ quan”, “cáo quan hồi hương” là một cách giữ tiết tháo, thuộc đạo làm quan của những ông quan thật sự vì dân vì nước.

Từ xưa các cụ đã coi việc “treo ấn từ quan”, “cáo quan hồi hương” là một cách giữ tiết tháo, thuộc đạo làm quan của những ông quan thật sự vì dân vì nước. (hình minh họa)

Rõ ràng, ở nhiều nước trên thế giới, văn hóa từ chức đã sớm tồn tại và phát triển, đặc biệt là các nước phát triển công nghiệp. Cụ thể: Đức đã thành công trong việc xây dựng Văn hóa từ chức bằng cách tạo ra một hệ thống chính trị với sự minh bạch, trung thực và tách biệt. Họ đã thiết lập quy tắc rõ ràng và nghiêm ngặt về đạo đức và trách nhiệm của các chính trị gia và quan chức. Đức cũng đã tạo ra cơ chế giám sát và đánh giá công bằng để đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm trong quy trình từ chức.

Vương quốc Anh đã có những kinh nghiệm và thành công đáng chú ý trong việc xây dựng và phát triển Văn hóa từ chức. Họ tạo ra một hệ thống chính trị độc lập và minh bạch, tách biệt các cơ quan giám sát và quyết định. Các cơ chế giám sát và kiểm soát được thiết lập để đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm trong quy trình từ chức. Văn hóa từ chức ở Anh Quốc dựa trên nguyên tắc độc lập, công bằng và trung thực. Họ cũng đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo và phát triển năng lực cho các quan chức. Các chương trình đào tạo đảm bảo rằng các quan chức có đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức để làm việc hiệu quả. Họ cũng khuyến khích việc học tập và phát triển cá nhân để nâng cao chất lượng và năng lực của các quan chức. Đồng thời, định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các quan chức, đảm bảo sự rõ ràng và minh bạch trong việc thực hiện quyền lực. Họ đã tạo ra một môi trường làm việc chủ động, khuyến khích sự đóng góp và trách nhiệm cá nhân của các quan chức; xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá công bằng để đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm trong quy trình từ chức. Các cơ quan giám sát được tổ chức độc lập và có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra và giám sát hoạt động của các quan chức.

Mỹ cũng đã có nền tảng vững chắc trong việc xây dựng Văn hóa từ chức thông qua các nguyên tắc và giá trị dân chủ, trách nhiệm công việc và đạo đức chính trị. Họ đã thiết lập cơ chế và chính sách để đảm bảo sự minh bạch, trách nhiệm và kiểm soát công việc của các quan chức. Mỹ cũng đã tạo ra một hệ thống liên lạc và tương tác tốt giữa công chúng và các quan chức, đảm bảo sự tham gia và giám sát của công chúng trong các quyết định và quá trình từ chức.

Trung Quốc cũng có nhiều thành công trong việc xây dựng Văn hóa từ chức thông qua việc tăng cường trách nhiệm và động viên công chức trong việc nâng cao chất lượng phục vụ công. Họ đã thiết lập các tiêu chuẩn đạo đức và mức độ chuyên nghiệp cho các quan chức và công chức, đồng thời áp dụng cơ chế kiểm tra, đánh giá và khen thưởng phù hợp. Trung Quốc cũng đã tạo ra một hệ thống quản lý nghiêm ngặt để giám sát và kiểm soát hành vi của các quan chức, đặc biệt là trong việc chống tham nhũng và lạm quyền…

Tại Việt Nam, văn hóa từ chức đã manh nha từ các thời đại trước nhưng cho đến nay vẫn chưa được chính thức hình thành nên văn hóa trong xã hội. Chính điều này đã tác động mạnh mẽ đến hiệu quả thực thi công việc của bộ máy chính trị quốc gia, làm suy giảm uy tín của những người cán bộ lãnh đạo đối với nhân dân. Vì vậy, không thể phủ nhận tính cấp thiết của việc nghiên cứu hiện tượng từ chức với tư cách là phạm trù văn hóa chính trị để góp phần làm thay đổi nhận thức của xã hội về vấn đề và phát huy mặt tích cực của nó trong xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.

Văn hóa từ chức đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống chính trị minh bạch, trung thực và hiệu quả. Văn hóa này đòi hỏi sự trung thực và tinh thần trách nhiệm của các nhà lãnh đạo. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, khi các nhà lãnh đạo có thể từ chức một cách tự nguyện khi họ không còn đủ khả năng hoặc không đáp ứng được sự tin tưởng của cử tri, nó đóng góp vào sự phát triển của chính trị và giúp tạo ra một môi trường chính trị công bằng và minh bạch.

Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc xây dựng đất nước, hiện thực hóa khát vọng phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc.

Từ nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế cho việc xây dựng văn hóa, tôi có một số gợi ý về cơ chế, chính sách với Việt Nam, cụ thể như sau:

Xây dựng và thúc đẩy một văn hóa từ chức thông qua việc đề cao giá trị đạo đức, minh bạch, trách nhiệm và tôn trọng. Ở đó, cần quan tâm đến 6 yếu tố sau:

1. Vai trò của người đứng đầu: Lãnh đạo cần thể hiện và thúc đẩy các giá trị đạo đức và minh bạch thông qua hành động và lời nói của mình. Họ nên là ví dụ điển hình về trách nhiệm và tôn trọng trong mọi khía cạnh của công việc.

2. Xây dựng quy trình từ chức: Đảm bảo tồn tại các quy trình rõ ràng và minh bạch về từ chức, đạo đức, trách nhiệm và tôn trọng. Điều này có thể bao gồm việc xác định rõ ràng các nguyên tắc đạo đức, quy tắc hành vi và cơ chế tố cáo.

3. Đào tạo và giáo dục: Cung cấp đào tạo liên quan đến từ chức, đạo đức và trách nhiệm cho tất cả nhân viên. Điều này giúp tăng cường nhận thức và sự hiểu biết về quyền và trách nhiệm của từ chức, cũng như khuyến khích tinh thần tôn trọng đối với người khác và môi trường làm việc.

4. Xây dựng một môi trường làm việc minh bạch: Tạo ra một môi trường làm việc mà thông tin được chia sẻ một cách minh bạch và mọi người được khuyến khích thảo luận ý kiến và đóng góp. Điều này giúp ngăn chặn sự che giấu thông tin, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển và cải thiện liên tục.

5. Đánh giá hiệu quả: Đưa vào thực hiện quy trình đánh giá hiệu quả để theo dõi và đánh giá mức độ tuân thủ các giá trị đạo đức, minh bạch, trách nhiệm và tôn trọng. Điều này giúp tạo ra một phản hồi xây dựng và cung cấp cơ hội để cải thiện và phát triển.

6. Xử lý vi phạm: Thiết lập một quy trình công bằng và minh bạch để xử lý các vi phạm liên quan đến từ chức, đạo đức và trách nhiệm. Đồng thời, công nhận và thưởng phạt nhân viên dựa trên hành vi và thành tích liên quan đến giá trị đạo đức và tôn trọng.

Để văn hóa từ chức được bình thường hóa trong đời sống thì cần có sự tiếp nhận và hiểu biết đúng đắn của không chỉ những người cán bộ mà còn đối với toàn thể người dân. Để tăng cường giáo dục và tuyên truyền để xây dựng văn hóa từ chức, Nhà nước cần xây dựng hệ thống giáo dục có chương trình phù hợp để truyền đạt giá trị và đạo đức từ chức. Nội dung giáo dục nên tập trung vào việc phát triển đạo đức, lòng tự trọng, tôn trọng người khác và các giá trị xã hội quan trọng. Sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng, bao gồm truyền hình, radio, báo chí và mạng xã hội để tuyên truyền giá trị và ý nghĩa của văn hóa từ chức. Tạo ra các chiến dịch tuyên truyền tích cực nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về tầm quan trọng của từ chức trong xã hội và đời sống cá nhân. Xây dựng một môi trường xã hội mà trong đó từ chức được đánh giá cao và được tôn trọng.

Suy cho cùng, người lãnh đạo chính là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Vì vậy, khi nhân dân có hiểu biết đúng đắn về văn hóa từ chức và ủng hộ văn hóa từ chức, cán bộ lãnh đạo sẽ bớt đi phần sức ép khi có nguyện vọng từ chức, được làm những điều đúng với tâm nguyện của mình, từ đó những người phù hợp với vị trí nào thì sẽ được làm đúng vị trí ấy, không chỉ những người muốn từ chức được đáp ứng nhu cầu và làm những công việc mình yêu thích,phù hợp với bản thân mà những người có đủ tài, trí, đức khác cũng có cơ hội để được phát huy đúng thực lực, khả năng, có cơ hội đảm nhiệm chức vụ phù hợp để góp phần lãnh đạo đất nước.

Việc thiết lập và thực thi các luật pháp và quy định về phòng ngừa và xử lý tham nhũng, lạm quyền, và các hành vi vi phạm đạo đức công vụ cũng rất quan trọng. Đầu tiên, cần thiết lập và định rõ các luật pháp và quy định liên quan đến phòng ngừa và xử lý tham nhũng, lạm quyền và các hành vi vi phạm đạo đức công cụ. Các quy định này nên được soạn thảo một cách rõ ràng, minh bạch và phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế về pháp luật và đạo đức. Nhà nước cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và liên kết, bao gồm cả các luật ở trong nước, cũng như các công ước quốc tế và hiệp ước mà quốc gia đã ký kết. Hệ thống này nên đảm bảo tính công bằng, sự bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan và sự trừng phạt đối với vi phạm. Cần có các cơ chế giám sát và kiểm soát để đảm bảo việc thực thi luật pháp và quy định diễn ra một cách minh bạch và trung thực.

Đảm bảo sự minh bạch và tiếp cận công bằng đối với hệ thống pháp luật và quy định. Quan trọng nhất là thiết lập các luật pháp và quy định một cách minh bạch và rõ ràng. Điều này đảm bảo rằng mọi người có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu được các quy định. Các văn bản pháp lý nên được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, tránh sử dụng thuật ngữ phức tạp và không rõ ràng, nhằm tăng cường sự hiểu biết và tiếp cận công bằng từ phía công dân.

Chính phủ nên thực hiện chính sách và biện pháp để đảm bảo công khai thông tin liên quan đến hệ thống pháp luật và quy định. Điều này có thể bao gồm việc công bố luật, quy định, quy trình pháp lý, và quyền và nghĩa vụ của công dân. Công chúng cần được thông báo đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm và quy trình pháp lý liên quan đến văn hóa từ chức để có thể tham gia một cách công bằng.

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=82563