Đánh giá hiệu quả khi lắp camera trên ô tô kinh doanh vận tải

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) mới đây đã có văn bản góp ý với Bộ Giao thông vận tải về dự thảo Nghị định sửa đổi liên quan đến quản lý vận tải bằng ô tô, đào tạo lái xe và dịch vụ sát hạch.

Đáng chú ý, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nêu lên những bất cập liên quan đến quy định lắp camera giám sát cho các xe vận tải.

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đề nghị đánh giá hiệu quả khi lắp camera trên ô tô kinh doanh vận tải. Ảnh minh họa.

Cụ thể từ ngày 1/7/2021, đơn vị kinh doanh vận tải hành khách sử dụng xe ô tô có sức chứa từ 9 chỗ (kể cả người lái xe) trở lên, đơn vị kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container, xe đầu kéo phải lắp camera theo quy định tại Nghị định 10/2020/NĐ-CP.

Trước khi quy định này có hiệu lực, VCCI đã khảo sát với hơn 100 doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách từ 9 chỗ trở lên, kinh doanh vận tải hàng hóa ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam để nhận diện một số tác động của quy định đối với doanh nghiệp.

Kết quả khảo sát cho thấy yêu cầu lắp camera tạo ra gánh nặng lớn về chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có thời hạn hoạt động dưới 5 năm.

Để thực hiện quy định này, một xe ô tô có thể phải gánh các chi phí khoảng 17 triệu đồng (chi trả chi phí lắp camera 5,8 triệu đồng; truyền dữ liệu: 1,2 triệu đồng, thải bỏ camera là 5 triệu đồng, chi phí để tháo dỡ camera là 5 triệu đồng (đơn vị đã lắp camera trước đó nhưng không tương thích với yêu cầu truyền dẫn).

Thống kê của Tổng cục Đường bộ đến trước tháng 7/2021, cả nước có khoảng 200.000 xe khách, xe đầu kéo nằm trong diện lắp camera giám sát.

Chi phí ước tính để tuân thủ riêng phần lắp camera là 1.160 tỷ đồng; chi phí truyền dẫn dữ liệu hàng tháng là 240 tỷ đồng.

Mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước khi ban hành quy định này là giám sát và cảnh báo vi phạm đối với tài xế lái xe, đảm bảo an toàn giao thông.

Tuy nhiên việc giám sát này có một số hạn chế nhất định vì dữ liệu truyền về là hình ảnh tĩnh chứ không phải là hình ảnh động (video). Do đó trong một số trường không chưa phản ánh chính xác hành vi của tài xế.

Ngoài ra camera có thể giám sát, cung cấp bằng chứng xử lý các vi phạm của hành khách trên xe.

Song chưa có số liệu thống kê đầy đủ nào về các hành vi vi phạm trên xe ô tô là nguy cơ cao để cơ quan nhà nước buộc phải thực hiện giám sát hành vi của các hành khách.

Còn các mục tiêu về giám sát tải trọng, hành trình của xe ô tô thì camera không có chức năng này và hiện tại quy định pháp luật đã có các công cụ khác để quản lý.

Do đó VCCI cho rằng nếu xét về tính pháp lý, quy định này chưa đủ rõ ràng để các doanh nghiệp xác định chính xác số lượng, chủng loại camera phải lắp trên xe.

Mặt khác yếu tố hình ảnh của hành khách thuộc về quyền hình ảnh riêng tư chưa được bảo vệ một cách hợp lý trong các quy định liên quan.

Trong khi đây lại là vấn đề quan trọng mà các quốc gia trên thế giới quan tâm khi quy định về lắp camera trên xe ô tô vận tải hành khách.

Nội dung tờ trình cũng nêu rõ:“Hệ thống xử lý dữ liệu hình ảnh camera mới dừng lại ở bước thử nghiệm, hiện các Sở GTVT đang phải theo dõi, chiết xuất dữ liệu trên phần mềm của đơn vị vận tải, nên công tác quản lý gặp nhiều khó khăn”.

Từ những ý kiến trên, VCCI đề nghị ban soạn thảo đánh giá lại việc yêu cầu lắp camera giám sát trên phương tiện ô tô kinh doanh vận tải.

Thế Anh

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/danh-gia-hieu-qua-khi-lap-camera-tren-o-to-kinh-doanh-van-tai-post267807.html