Chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh đối với Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chiến thắng đó là kết quả của quá trình chiến đấu kiên cường, bền bỉ, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời thể hiện tư duy nhạy bén, linh hoạt, chính xác của Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo, điều hành Chiến dịch Hồ Chí Minh nói chung, trên hướng Đông của Chiến dịch nói riêng. Điều đó được thể hiện rõ nét trên các nội dung chủ yếu sau:

1. Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch, quyết tâm Chiến dịch Hồ Chí Minh

Từ giữa năm 1973, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương (QUTƯ), Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu, trực tiếp là Cục Tác chiến xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Qua nhiều lần bổ sung, điều chỉnh kế hoạch theo diễn biến của tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị (12-1974 / 1-1975) xác định quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 và dự kiến: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975”(1). Trên cơ sở đánh giá, nhận định tình hình mọi mặt và diễn biến chiến trường, nhất là sau thắng lợi của các chiến dịch Phước Long, Tây Nguyên, ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị, QUTƯ và Bộ Tổng Tư lệnh khẳng định thời cơ chiến lược lớn đã đến, hạ quyết tâm chuyển kế hoạch cuộc tiến công chiến lược năm 1975 thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975 với hướng tiến công chiến lược chủ yếu là Sài Gòn.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và QUTƯ, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo đẩy mạnh Chiến dịch Trị Thiên-Huế (từ ngày 5 đến 26-3-1975) và mở Chiến dịch Đà Nẵng (từ ngày 26 đến 29-3-1975) nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi thực hiện “Quyết tâm hoàn toàn giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa (tháng 5-1975)”(2). Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh, trực tiếp là bộ tư lệnh các chiến dịch, quân và dân ta đã tiêu diệt và đập tan hệ thống phòng thủ kiên cố của địch, làm tan rã âm mưu co cụm chiến lược của chúng, đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế bị động về chiến lược, suy sụp ý chí chiến đấu, tan rã về lực lượng. Ngay khi thời cơ chiến lược chín muồi, ngày 1-4-1975, Bộ Chính trị quyết định: “Nắm vững hơn nữa thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất; tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm”(3). Trong cuộc họp ngày 8-4-1975 ở căn cứ Tà Thiết (Lộc Ninh), Bộ Chính trị và QUTƯ quyết định thành lập Bộ tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định (đến ngày 14-4-1975 đổi tên thành Chiến dịch Hồ Chí Minh), gồm các đồng chí: Tư lệnh Chiến dịch: Đại tướng Văn Tiến Dũng; Chính ủy: Phạm Hùng; các Phó tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Trung tướng Lê Trọng Tấn; Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị: Trung tướng Lê Quang Hòa; Quyền Tham mưu trưởng Chiến dịch: Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền.

Chấp hành chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị và QUTƯ, Bộ Tổng Tư lệnh xác định quyết tâm và những nét lớn của kế hoạch Chiến dịch Hồ Chí Minh: Mục đích của chiến dịch là đánh đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc cuộc chiến tranh, giành thắng lợi triệt để. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến chiến dịch là “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Cách đánh chiến dịch là tiêu diệt, ngăn chặn và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn phòng ngự vòng ngoài, mở đường cho các binh đoàn đột kích thọc sâu, nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu, kết hợp tiến công và nổi dậy, kết hợp đánh bên trong và đánh bên ngoài. Hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là hướng Bắc và Tây Bắc, trong đó, hướng Tây Bắc là chủ yếu nhất; hướng Đông và Tây Nam là những hướng hiểm yếu và quan trọng. Các mục tiêu chủ yếu trong nội thành phải nhanh chóng đánh chiếm gồm Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, Dinh Độc Lập; trong đó, Dinh Độc Lập là hợp điểm chiến dịch.

Căn cứ sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh và diễn biến chiến trường, ngày 22-4-1975, Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh duyệt lại lần cuối kế hoạch tác chiến và kế hoạch bảo đảm; giao khu vực tác chiến và mục tiêu tiến công cụ thể cho từng quân đoàn trên từng hướng. Hướng Bắc do Quân đoàn 1 phụ trách, có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Phú Lợi, Lai Khê, Bến Cát, Tân Uyên, thọc sâu vào nội đô đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Sài Gòn. Hướng Tây Bắc do Quân đoàn 3 phụ trách, có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở Gò Dầu, Trảng Bàng, ngăn chặn Sư đoàn 25 Bộ binh co cụm về Sài Gòn, đồng thời, thọc sâu vào nội đô đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Hướng Đông Nam do Quân đoàn 2 phụ trách có nhiệm vụ đánh chiếm Căn cứ Nước Trong, Chi khu Long Bình, Chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, bến phà Cát Lái... cùng các mục tiêu ở nội đô. Hướng Tây và Tây Nam do Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8) phụ trách, có nhiệm vụ chặn địch rút chạy hoặc tăng viện cho Sài Gòn, tổ chức mũi thọc sâu đánh chiếm biệt khu thủ đô. Hướng Đông do Quân đoàn 4 phụ trách, lực lượng gồm 3 sư đoàn (6, 7 và 341) có nhiệm vụ đánh chiếm khu Biên Hòa, Hố Nai, phát triển tiến công làm chủ các mục tiêu quan trọng ở nội đô Sài Gòn.

Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 270, Sư đoàn 341 hiệp đồng chiến đấu với xe tăng tiến công giải phóng Hố Nai ngày 29-4-1975. Ảnh tư liệu

2. Chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt cho trận mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông

Cùng với xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch, quyết tâm Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo các cơ quan, đơn vị gấp rút tổ chức các đợt hoạt động tạo thế. Đối với hướng Đông của chiến dịch, ngày 15-4-1975, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh: “Nếu tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch ở đây (Sư đoàn 18, lữ đoàn dù, một số chiến đoàn bộ binh, thiết giáp) thì trận then chốt sẽ có ý nghĩa và tác dụng rất lớn đối với sự phát triển của toàn bộ chiến trường. Cần theo dõi sát tình hình địch, từ bây giờ có kế hoạch chia cắt, ngăn chặn và tiêu diệt chúng trong trường hợp chúng rút về Biên Hòa. Đồng thời, có kế hoạch chuẩn bị cho trận đánh lớn ở Biên Hòa”(4). Thực hiện mệnh lệnh “thần tốc, táo bạo” của Bộ Tổng Tư lệnh, ngày 16-4-1975, Quân đoàn 2 đã phát huy sức mạnh binh chủng hợp thành, thực hiện tiến công trong hành tiến, đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang, tạo điều kiện cho Sư đoàn 341 cùng các đơn vị của Quân đoàn 4 chọc thủng “cánh cửa thép” Xuân Lộc bảo vệ Sài Gòn-Gia Định trên hướng Đông, giải phóng thị xã Xuân Lộc và tỉnh Long Khánh.

Trước nguy cơ sụp đổ, địch co cụm lực lượng về xung quanh trung tâm đầu não, hình thành 3 tuyến phòng ngự bảo vệ Sài Gòn-Gia Định. Tuyến vòng ngoài gồm có Sư đoàn Bộ binh 22 ở Long An, Bến Lức; Sư đoàn 25 Bộ binh phụ trách Tây Ninh, Trảng Bàng, Củ Chi, Đồng Dù, Hậu Nghĩa; Sư đoàn 5 Bộ binh phụ trách Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương; Sư đoàn 18 Bộ binh đóng giữ Bàu Cá, Trảng Bom, Suối Đỉa; Sư đoàn Thủy quân lục chiến (2 lữ đoàn) chốt giữ Long Bình; Lữ đoàn 3 kỵ binh phụ trách Biên Hòa-Long Bình; Lữ đoàn dù 1 chốt giữ Bà Rịa. Tuyến ven đô, địch tổ chức thành 4 khu vành đai: Khu Bắc, từ Hóc Môn-Cầu Bông trở vào Tân Sơn Nhất, do Liên đoàn 9 biệt động quân cùng 2 liên đoàn công binh và lực lượng thuộc Trung tâm huấn luyện Quang Trung đảm nhiệm; khu Tây, gồm Vĩnh Lộc, Tân Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào, do Liên đoàn 7, Liên đoàn 8 biệt động quân và Liên đoàn 239 bảo an đảm nhiệm; khu Nam gồm Nhà Bè, Nhơn Trạch do lực lượng bảo an dân vệ đảm nhiệm; khu Đông gồm Gò Vấp, quận 9, Thủ Đức, do Lữ đoàn 4 dù, Liên đoàn 931 địa phương quân và lực lượng thuộc Quân trường Thủ Đức đảm nhiệm. Tuyến nội đô tổ chức thành 5 liên khu do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự đảm nhiệm(5).

Trên cơ sở nắm bắt và đánh giá chuyển động mau lẹ của tình hình chiến trường, ngày 22-4-1975, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh tranh thủ từng ngày giành thắng lợi liên tiếp, tiến tới tổng tiến công và xác định nhiệm vụ cụ thể của cánh quân hướng Đông: Một là, tiêu diệt lực lượng địch trên đường chúng rút về Biên Hòa, đánh chiếm Biên Hòa; hai là, đánh chiếm Bà Rịa-Vũng Tàu, khống chế sông Lòng Tàu; ba là, có biện pháp triển khai trận địa pháo 130mm ở khu vực Thành Tuy Hạ để đánh phá sân bay Tân Sơn Nhất và một số mục tiêu ở nội đô Sài Gòn; bốn là, phát triển nhanh chóng vào nội đô theo hướng địch sơ hở nhất và có lợi cho ta nhất(6). Trong lúc này, cùng với hoạt động tạo thế, công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và cơ động lực lượng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành, các binh đoàn chủ lực mạnh hình thành thế bao vây Sài Gòn trên 5 hướng, chuẩn bị sẵn sàng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Thực hiện mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 341 tiến công tiêu diệt địch ở Trảng Bom, Suối Đỉa, Sông Thao; nếu không tiêu diệt gọn thì bao vây chặt, không cho địch rút chạy về Biên Hòa để bảo đảm đường cơ động cho đại bộ phận lực lượng, binh khí kỹ thuật của Quân đoàn tiến công vào Biên Hòa và Sài Gòn(7). Trong thế trận chung, Trảng Bom ở phía Đông thị xã Xuân Lộc, tỉnh Biên Hòa là một mắt xích trọng yếu trên tuyến phòng ngự phía trước của địch; có thế liên hoàn, vững chắc từ ấp Hương Nghĩa qua Trảng Bom-Suối Đỉa-Hố Nai, dài 14km, bao gồm các Chiến đoàn 43, 48, 52, Chi đoàn 1 và 3, Thiết đoàn 5 xe tăng thiết giáp và Chiến đoàn 315. Địch tập trung chủ yếu ở hướng Đông và Đông Bắc, có 7 trận địa pháo binh, Tiểu đoàn 316 bảo an và 2 đại đội biệt lập.

Luôn theo sát từng diễn biến trên chiến trường, ngày 23-4-1975, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo cánh quân hướng Đông về cách đánh ở Biên Hòa: “Rút kinh nghiệm quý báu của trận đánh vào Đà Nẵng, hết sức tìm cách phát huy uy lực cao nhất của hỏa lực pháo binh, một mặt kiềm chế các sân bay và trận địa pháo của địch, một mặt làm cho tinh thần địch khủng khiếp và tan rã nhanh như ở Đà Nẵng”(8). Bên cạnh đó, Bộ Tổng Tư lệnh cũng chỉ đạo: “Nếu đánh Trảng Bom mất nhiều thời gian thì cần có cách cho bộ đội đi vòng qua để đánh thẳng vào Biên Hòa”(9). Quán triệt sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh và ý định tác chiến của Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ tư lệnh Sư đoàn 341 khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị, nắm chắc tình hình địch và tổ chức chiếm lĩnh trận địa. Mục tiêu tiến công chủ yếu là Bộ chỉ huy yếu khu quân sự Trảng Bom, Sở chỉ huy Chiến đoàn 43, mục tiêu tiến công quan trọng là Sở chỉ huy Chiến đoàn 48 và khu Bàu Cá. Trong lúc Sư đoàn 341 đang tích cực chuẩn bị mọi mặt, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Bộ tư lệnh Trường Sơn, Mặt trận Tây Nguyên, Quân khu 5 gấp rút chuyển hàng chục nghìn viên đạn các loại vào cho cánh quân hướng Đông để bảo đảm thắng lợi cho trận tiến công Trảng Bom.

3. Chỉ đạo đẩy mạnh tiến công thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên hướng Đông

Dưới sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Bộ Tổng Tư lệnh, trực tiếp là Bộ tư lệnh Chiến dịch, rạng sáng 27-4-1975, các đơn vị của Sư đoàn 341 đã cơ động đến vị trí xác định, quyết tâm sử dụng toàn bộ lực lượng của Sư đoàn, kết hợp với xe tăng, pháo binh của trên phối thuộc chiến đấu hiệp đồng binh chủng, kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch tại khu vực Trảng Bom, nhanh chóng phát triển vào Biên Hòa, Sài Gòn. Trước thời điểm chính thức nổ súng tiến công Trảng Bom, mệnh lệnh “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”(10) của Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục được quán triệt sâu rộng, góp phần nâng cao quyết tâm chiến đấu cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 341. Với khí thế quyết chiến, quyết thắng, vào lúc 4 giờ 5 phút, hỏa lực pháo binh của Sư đoàn 341 bắn vào các mục tiêu như Sở chỉ huy yếu khu, Sở chỉ huy Chiến đoàn 48, ấp Dương Ngơ, Bắc Bàu Cá... và kiềm chế các trận địa pháo của địch, gây thiệt hại nặng cho địch. Tiếp đó, pháo binh chuyển làn bắn vào Bàu Cá, Nam Trảng Bom, ga Sông Mây, suối Đỉa để chi viện cho Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 270 tiến công.

Trên hướng chủ yếu, các lực lượng của Trung đoàn Bộ binh 270 đồng loạt tiến công, tiêu diệt Sở chỉ huy Tiểu đoàn 3, Chiến đoàn 43 và pháo kích vào trận địa pháo của địch ở ga Sông Mây, Suối Đỉa và lực lượng co cụm ở phía Nam Đường 1A. Tiểu đoàn 5 phát triển đánh vào trung tâm yếu khu quân sự Trảng Bom, buộc địch rút chạy về phía Nam; Tiểu đoàn 4 tổ chức tiến công địch ở suối Đỉa và thực hành chia cắt để ngăn chặn, tiêu diệt lực lượng Chiến đoàn 315 ở phía Tây. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn Bộ binh 273 tổ chức các mũi tiến công tiêu diệt địch tại các mục tiêu được phân công. Sau khi đánh chiếm đầu cầu, Đại đội 11 cùng với xe tăng đánh vào trận địa pháo và các cụm địch, tiêu diệt địch ở yếu khu và Tiểu đoàn 3, Chiến đoàn 43; Tiểu đoàn Bộ binh 1 tổ chức tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 48. Từ hướng Bắc Đường 1A, các Đại đội 1, 2 tiến công trận địa pháo của địch, phối hợp với Tiểu đoàn Bộ binh 8, Trung đoàn Bộ binh 266 đánh địch co cụm ở ấp Dương Ngơ. Trên hướng phối hợp, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn Bộ binh 266 lợi dụng kết quả pháo bắn, nhích dần đội hình, áp sát các mục tiêu ở Bàu Cá. Tiểu đoàn 8 phối hợp cùng xe tăng đột phá các ổ đề kháng của địch, phát triển tiêu diệt Tiểu đoàn 2, Chiến đoàn 48, làm chủ Bàu Cá. Tiếp tục truy kích địch rút chạy, Đại đội 6 và 7 cùng với xe tăng hiệp đồng tiến công tiêu diệt địch co cụm ở ấp Dương Ngơ.

8 giờ 30 phút ngày 27-4-1975, Sư đoàn 341 cơ bản tiêu diệt toàn bộ quân địch, làm chủ từ ngã ba sông Thao đến phía Tây Trảng Bom. Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn Bộ binh 266 cùng với xe tăng phát triển theo Đường 1A về Suối Đỉa, Long Lạc. Đến 10 giờ 30 phút, toàn bộ quân địch ở Suối Đỉa bị tiêu diệt. Trải qua nhiều giờ liên tục đẩy mạnh tiến công, Sư đoàn 341 đã phát huy sức mạnh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, tiêu diệt và làm tan rã các Chiến đoàn 43, 48, 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh, 2 Chi đoàn xe tăng, trung tâm yếu khu, Sở chỉ huy Chiến đoàn 43 và 48, Tiểu đoàn bảo an và đại đội biệt lập, bắt 1.715 tên tù binh, làm tan rã hệ thống chính quyền địch ở cơ sở, giải phóng đất đai và hơn 10.000 dân(11).

Quán triệt sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh và mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Bộ tư lệnh Quân đoàn 4, Sư đoàn 341 đã thực hiện thành công trận mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông, tiêu diệt đại bộ phận lực lượng, vũ khí, phương tiện của Sư đoàn 18 Bộ binh địch ở khu vực Trảng Bom, phá vỡ một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng ngự phía trước của đối phương. Trong thế trận chung của chiến dịch, trận đột phá yếu khu quân sự Trảng Bom giành thắng lợi vang dội đã mở toang cánh cửa tiến vào trung tâm đầu não chính quyền Sài Gòn trên hướng Đông, tạo điều kiện thuận lợi cho Quân đoàn 4 cùng các lực lượng cơ động của Bộ phát triển theo chiều sâu chiến dịch. Trận tiến công Trảng Bom là sự kiểm nghiệm trên thực tế khả năng cơ động và sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của Sư đoàn 341; đồng thời để lại nhiều kinh nghiệm về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng, quyết tâm lựa chọn thời cơ và hướng tiến công phù hợp. Chiến thắng Trảng Bom góp phần củng cố vững chắc niềm tin, tinh thần quyết chiến, quyết thắng và cổ vũ mạnh mẽ toàn quân, toàn dân ta trên khắp các hướng chiến dịch đẩy nhanh nhịp độ tiến công, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

4. Chỉ đạo phát huy kết quả của hướng Đông, cùng các hướng tiến công, giành thắng lợi hoàn toàn cho Chiến dịch Hồ Chí Minh

Ngay sau khi trận tiến công quân địch ở Trảng Bom kết thúc thắng lợi, Bộ Tổng Tư lệnh nhanh chóng đánh giá tình hình và chỉ đạo cánh quân hướng Đông: “Tình hình phát triển hướng của đồng chí (Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân hướng Đông-TG) đang thuận lợi, có thể đi nhanh hơn kế hoạch hiệp đồng chung. Các đơn vị phía Đông nếu đã đến mục tiêu trước mắt sớm hơn thời gian quy định thì không nên chờ các cánh khác phối hợp chung mà nên phát triển ngay”(12).

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh và mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 4 phát huy thắng lợi trận mở màn của Sư đoàn 341, gấp rút tổ chức lực lượng tiến công khu vực phòng thủ của địch ở Hố Nai, ngoại vi thị xã Biên Hòa. Tại đây, địch đã xây dựng những cụm phòng ngự mạnh, có các tuyến hào chống tăng để ngăn chặn quyết liệt cuộc tiến công của ta. Tuy nhiên, trước sức tiến công mãnh liệt của ta, rạng sáng 29-4-1975, địch phải di chuyển máy bay từ sân bay Biên Hòa về sân bay Tân Sơn Nhất; Sở chỉ huy Quân đoàn 3 địch bỏ Biên Hòa chạy về Gò Vấp. Trong lúc đó, Quân đoàn 2 đã đưa trận địa pháo 130mm đến Nhơn Trạch, bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất và phát triển tiến công đánh chiếm Chi khu quân sự Long Thành, Trường Sĩ quan Thiết giáp, làm tan rã toàn bộ quân địch, làm chủ căn cứ Nước Trong và khu vực lân cận. Trên hướng Đông Nam, Quân đoàn 2 tổ chức lực lượng tiến công Chi khu Đức Thạnh, Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp và làm chủ thị xã Vũng Tàu.

Được chiến thắng Trảng Bom tạo đà, cánh quân hướng Tây Bắc do Quân đoàn 3 phụ trách liên tục đột kích, thọc sâu khống chế sân bay Tân Sơn Nhất, đánh chiếm Căn cứ Đồng Dù, tạo điều kiện cho Sư đoàn Bộ binh 316 chuyển từ vây ép sang phản kích, tiêu diệt phần lớn các cụm quân địch phòng thủ vòng ngoài từ Củ Chi qua Gò Dầu. Trên hướng Bắc, Quân đoàn 1 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Bình Dương bao vây Căn cứ Phú Lợi, đánh chiếm sân bay Ông Lĩnh, tiến về phía Đông Lái Thiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của Sư đoàn 5 địch, bao vây, cô lập căn cứ Lai Khê. Cùng lúc đó, trên hướng Tây và Tây Nam, Đoàn 232 cùng LLVT địa phương tiến công đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 22 địch, cắt đứt Đường 4, cô lập Sài Gòn với Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời, mở cửa mở đánh chiếm đầu cầu ở An Ninh, Lộc Giang trên sông Vàm Cỏ để đưa lực lượng đột kích chủ yếu là Sư đoàn 9 và các đơn vị binh khí kỹ thuật qua sông. Mặc dù địch chống cự quyết liệt nhưng các cánh quân với sức mạnh áp đảo, đã thực hiện ngăn chặn, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn lực lượng chủ yếu của địch ở vòng ngoài, mở thông cửa cho các binh đoàn chủ lực thọc sâu vào đúng nơi quy định. Phối hợp cùng bộ đội chủ lực, LLVT và nhân dân các địa phương kịp thời nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, thành lập chính quyền cách mạng, đồng thời, hỗ trợ tích cực cho các cánh quân nhanh chóng đột phá vào trung tâm đầu não chính quyền Sài Gòn.

Nắm chắc thời cơ địch đang hoảng loạn và tan rã trên diện rộng, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh nhanh chóng phát triển tiến công vào nội đô, tập trung lực lượng đánh chiếm cơ quan đầu não của địch. Đối với cánh quân hướng Đông, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo: “Bộ Chính trị và QUTƯ nhận thấy trong tình hình các hướng phát triển thuận lợi, hướng đồng chí Lê Trọng Tấn hành động càng nhanh càng tốt”(13) và quyết định từ 16 giờ ngày 29-4-1975, cánh quân hướng Đông do đồng chí Lê Trọng Tấn trực tiếp chỉ huy mở đầu trận tổng tiến công vào Sài Gòn, các cánh quân khác bắt đầu đột kích trên các hướng từ 5 giờ ngày 30-4-1975.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh và Bộ tư lệnh Chiến dịch, Tư lệnh cánh quân hướng Đông lệnh cho Sư đoàn 341 cùng các đơn vị của Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 đẩy nhanh tốc độ hành quân, phát huy sức mạnh của pháo binh, xe tăng đập tan các cụm phòng ngự của địch trên đường hành quân, phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các hướng khác thực hiện tổng công kích vào nội đô Sài Gòn, đánh chiếm các mục tiêu then chốt như Bộ Tổng Tham mưu địch, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha Cảnh sát, Dinh Độc Lập, Đài Phát thanh Sài Gòn... Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được cắm trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Phối hợp với đòn tiến công vào nội thành Sài Gòn, quân và dân các địa phương miền Nam kết hợp tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng còn lại của địch, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình lực lượng ta và địch cùng những chuyển động nhanh chóng, phức tạp trong những thời khắc cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Tổng Tư lệnh đã kịp thời tham mưu cho Bộ Chính trị, QUTƯ xây dựng quyết tâm và kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cùng với những bước tạo thế, tạo lực, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo các cơ quan hoàn chỉnh kế hoạch, quyết tâm Chiến dịch Hồ Chí Minh và lựa chọn chính xác mục tiêu để thực hiện trận then chốt mở màn chiến dịch, tạo đà cho cánh quân hướng Đông đẩy mạnh tiến công, cùng những cánh quân trên các hướng phát huy sức mạnh binh chủng, quân chủng trong tác chiến hiệp đồng quy mô lớn, đập tan mọi nỗ lực kháng cự, ngăn chặn nhằm duy trì chiến tranh của đối phương, kết thúc thắng lợi 30 năm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong giai đoạn cách mạng mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen, QUTƯ, Bộ Quốc phòng tiếp tục kế thừa, phát huy và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm chỉ đạo đối với Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông, chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước kịp thời có chủ trương, đối sách kịp thời xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, biển, đảo, lợi ích quốc gia-dân tộc. Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm cơ sở để tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chiến lược, đề án quan trọng về quân sự, quốc phòng, góp phần hoàn thiện, phát triển tư duy lý luận, đường lối, nghệ thuật quân sự, bảo đảm BVTQ “từ sớm, từ xa”.

Để nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị bám sát phương châm chỉ đạo của Nghị quyết 05 ngày 17-1-2022 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 230 ngày 2-4-2022 của QUTƯ, nhất là Nghị quyết 44 ngày 24-11-2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “Về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới”; quyết liệt triển khai bảo đảm đúng tiến độ, lộ trình thực hiện Kế hoạch của Bộ Quốc phòng về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; gắn với bảo đảm vũ khí, trang bị cho các lực lượng đến năm 2025 theo Nghị quyết số 15 ngày 1-8-2018 của Bộ Chính trị. Tiếp tục quyết liệt điều chỉnh tổ chức biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và vũ khí, trang bị mới, bảo đảm mục tiêu đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Trên cơ sở giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố, giữ vững “trận địa tư tưởng” của Đảng trong Quân đội và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Gắn việc điều chỉnh tổ chức lực lượng với duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập, giáo dục và đào tạo. Chủ động phòng ngừa, tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ biên giới, nội địa, vùng trời, vùng biển, đảo cũng như chủ quyền không gian mạng của Tổ quốc; chuẩn bị tốt lực lượng, phương tiện và phương án để thực hiện “nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình”, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương triển khai hiệu quả Kết luận 64 ngày 30-10-2019 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 28 và Nghị định 21 ngày 22-2-2019 của Chính phủ về khu vực phòng thủ. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng chủ động, tự chủ, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Quán triệt và triển khai hiệu quả Nghị quyết 34 ngày 9-1-2023 của Bộ Chính trị về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Kết luận 53 ngày 28-4-2023 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo, nhằm nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng song phương và đa phương, đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả; tập trung thúc đẩy cơ chế tham vấn, đối thoại, hợp tác trên các lĩnh vực phù hợp với thế mạnh của từng đối tác và nhu cầu của Việt Nam, đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Thành công của trận tiến công của Sư đoàn 341 tiêu diệt quân địch ở khu vực Trảng Bom đã góp phần mở thông cánh cửa bảo vệ trung tâm đầu não ngụy quyền Sài Gòn trên hướng Đông, tạo thời cơ thuận lợi cho các hướng chiến dịch phát triển thế tiến công, hoàn thành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến thắng Trảng Bom đã để lại nhiều kinh nghiệm về chỉ đạo, tổ chức, điều hành chiến dịch và đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam nói chung, nghệ thuật thực hành trận mở màn chiến dịch nói riêng. Gần 50 năm đã trôi qua, thắng lợi của trận mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh trên hướng Đông vẫn chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, vận dụng phù hợp, sáng tạo, linh hoạt, góp phần nâng cao chất lượng, sức mạnh tổng hợp của Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và BVTQ trong tình hình mới.

Thượng tướng, TS LÊ HUY VỊNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

(1) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, "Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 8, Nxb CTQG-ST, H, 2013, tr.227

(2) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, "Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện)", Nxb QĐND, H, 2003, tr.468

(3) Đại tướng Văn Tiến Dũng, "Đại thắng mùa Xuân", Nxb QĐND, H, 1976, tr.163

(4) Quân đội nhân dân Việt Nam-Bộ Tổng Tham mưu, "Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 11, Nxb QĐND, H, 2016, tr.268

(5) Bộ Quốc phòng, "Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam", quyển 1, Nxb QĐND, H, 2015, tr.176

(6) "Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 11, Sđd, tr.301

(7) Phòng Tham mưu Sư đoàn 341, Báo cáo tổng kết trận Trảng Bom của Cụm pháo binh 4, Sư đoàn 1 Bộ binh chi viện cho Sư đoàn tiêu diệt cứ điểm Trảng Bom (từ 24 giờ ngày 24-4 đến 1 giờ ngày 27-4-1975). Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Quân sự, ký hiệu: TK-2166, tr.3

(8) "Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 11, Sđd, tr.304

(9) "Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 11, Sđd, tr.312

(10) "Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 11, Sđd, tr.228

(11) "Về trận Trảng Bom của Sư đoàn 341 Quân khu 4 ngày 27-4-1975". Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Quân sự, số TK 002398, tr.12

(12) "Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)", tập 11, Sđd, tr.320

(13) Quân đội nhân dân Việt Nam-Bộ Tổng Tham mưu, "Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", tập 5, Nxb QĐND, H, 2017, tr.400

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tiep-lua-truyen-thong/chi-dao-cua-bo-tong-tu-lenh-doi-voi-chien-dich-ho-chi-minh-tren-huong-dong-773740