Chân dung GS.TSKH Bùi Mạnh Nhị qua 'Trang sách trang đời'

Qua 'Trang sách trang đời' ta thấy một nhà khoa học Bùi Mạnh Nhị nghiêm cẩn với nhiều đóng góp cho ngành Folklore học và ngành giáo dục nước nhà.

PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị.

PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị.

Bùi Mạnh Nhị - nhà khoa học nghiêm cẩn với nhiều đóng góp cho ngành giáo dục và ngành Folklore học

Mặc dù rất bận rộn với công việc quản lý nhưng PGS.TSKH, Nhà giáo ưu tú Bùi Mạnh Nhị vẫn có được một khối lượng công trình nghiên cứu khá lớn. Trong đó có những công trình đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu của nền văn học dân gian nước nhà.

Các công trình của tác giả vừa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn vừa được tìm hiểu tới tận ngọn nguồn. Phát huy những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, vận dụng những thao tác nghiên cứu đặc thù của văn học dân gian, anh đã có những phát hiện mới mẻ và tinh tế: Chỉ ra sự khác biệt giữa folklore các dân tộc, sự khác biệt giữa dân ca trữ tình Việt Nam với dân ca các nước: Nga, Đức, Ấn Độ; đồng thời đã làm rõ sự khác biệt về thời gian nghệ thuật giữa hai mảng ca dao dân ca (thơ dân gian) và truyện cổ dân gian (văn xuôi dân gian): Đối tượng luôn được nhà nghiên cứu tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa và góc nhìn thể loại vì thế.

Chính góc nhìn văn hóa đã giúp anh phát hiện ra bức thông điệp văn hóa chọn người hiền tài mà ông cha ta đã gửi gắm trong truyền thuyết “Bánh chưng bánh giày”; hát ru là những bài ca hay nhất thế gian và giúp tác giả cắt nghĩa được cơ sở hình thành những tài năng lớn Như Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Lưu Quang Vũ… Đó là những nhà văn hóa có tư tưởng lớn và phong cách nghệ thuật riêng.

Đặt tác phẩm trong cái nhìn thể loại nên trước khi phân tích, người viết thường làm rõ đặc trưng thể loại của tác phẩm và đặt chúng trong mối quan hệ chuyên ngành và liên ngành: “Không được dừng lại ở một văn bản, mà phải mở rộng ra thi pháp liên văn bản, tức thi pháp truyền thống” (tr. 41).

Việc soi chiếu những giá trị truyền thống dưới ánh sáng của những lý thuyết hiện đại, đã giúp anh đã tìm ra những quy luật, những nét đặc sắc của đối tượng và đã có được những công trình mang hàm lượng khoa học cao.

Bài viết “Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình” được coi là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu ca dao, dân ca nước nhà nên đã được đưa vào tất cả những công trình nghiên cứu ca dao, dân ca của Việt Nam trong những năm gần đây.

Các công trình dành cho nhà trường về văn học dân gian của tác giả có sức lan tỏa rất lớn. Chúng đã góp phần định hướng, tháo gỡ không ít khó khăn, giúp các nhà giáo dạy văn có thao tác phân tích các tác phẩm văn học dân gian một cách khoa học, để hiểu sâu sắc giá trị của bộ phận văn học truyền miệng.

Với thế hệ trẻ, những bài viết tâm huyết của thầy Bùi Mạnh Nhị không chỉ cung cấp những kiến thức bổ ích, quý báu mà còn truyền cảm hứng, nuôi dưỡng tình yêu, niềm tự hào của các em học sinh - sinh viên đối với bộ phận văn học truyền miệng của dân tộc.

Với vùng đất mới Nam bộ, anh là một trong số ít người đã có công khai vỡ và khẳng định nhiều giá trị độc đáo của folklore, là người lần đầu tiên giới thiệu ca dao, dân ca Nam bộ tới bạn bè thế giới.

Có thể nói, qua “Trang sách trang đời” ta thấy một nhà khoa học Bùi Mạnh Nhị nghiêm cẩn với nhiều đóng góp cho ngành Folklore học và ngành giáo dục nước nhà.

Bùi Mạnh Nhị - nhà khoa học có tâm hồn nghệ sĩ

Bùi Mạnh Nhị không chỉ là nhà khoa học nhân văn nghiêm cẩn mà còn là một người có tâm hồn nghệ sĩ.

Chất nghệ sĩ xuất hiện rất sớm từ khi anh học lớp chuyên văn của trường Lê Hồng Phong (Nam Định). Có năng khiếu và đam mê thi ca, từ năm 1975 anh đã có thơ đăng báo và bài thơ “Mương con gái” của anh đã được nhận giải thưởng của Hội Văn nghệ Hà Nội.

Điều thú vị là, thơ của nhà khoa học có tâm hồn nghệ sĩ Bùi Mạnh Nhị thường có nội dung trữ tình, tao nhã, lãng mạn mà mực thước.

Thơ anh thường hướng tới cái đẹp, cái độc đáo, sâu lắng của trong tình yêu, âm nhạc, nghệ thuật; thường đi vào vẻ đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên hay những khoảnh khắc con người phải đối diện với lòng mình nên đã tạo nên phong cách riêng: nhã và sang, có sự kết tinh tạo được đỉnh cao, mà “Vô đề” là một ví dụ.

Rót cho đầy ly cạn

Uống cho cạn ly đầy

Ta uống đừng bảo ta tỉnh

Ta uống chớ nói ta say…

Rót cho đầy vĩnh cửu

Uống cho cạn thoáng qua

Sao em nhìn ta bật khóc

Rượu này có nước mắt pha

Bài thơ vinh dự có mặt trong bộ “Nghìn năm thơ Việt”(1010 – 2010). Đây là bài thơ hay với những câu thơ tài hoa ẩn chứa vẻ đẹp triết mĩ phảng phất hồn thơ Lý Bạch mà chỉ những tâm hồn nghệ sĩ đích thực mới thăng hoa, xuất thần mà có được, cho thấy tác giả là “Một cây bút thơ tài hoa, thâm trầm, tinh tế” (Văn Giá).

Con người trong thơ Nhị là một tiểu vũ trụ sống hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên:

Kéo vạt sao vào chăn ngủ

Ghẹo ta khúc khích xuân thì

(Khai bút)

Nho nhã và tinh tế, lãng mạn và phóng khoáng, anh đã khéo léo hữu hình hóa những cái vô hình:

Anh gom những mong manh chưa vớt được

Thả lên trời thành những vì sao

(Những vì sao và những con sóng)

Mặt khác, thơ anh thường kiệm lời, sâu sắc, trí tuệ và giàu tính triết lý với rất nhiều chiêm nghiệm:

Mũ áo một nơi người một nơi

Như thân và chức cũng thế thôi

(Thăm mộ chôn mũ áo làm quan của Lý Bạch)

Hóa thân vào văn xuôi, chất thơ đã làm cho những tản văn, chân dung của nhà khoa học có tâm hồn nghệ sĩ họ Bùi có sức hấp dẫn riêng. Trong đó có những tác phẩm xuất sắc viết về: GS. NGND. Lê Trí Viễn, GS.TSKH, Thứ trưởng Bộ Giáo dục&Đào tạo Trần Văn Nhung... hay cách uống rượu cùng bạn quý Ngũ Duy Anh, cách thưởng trà cùng Đại Đức Thích Đồng Văn… Có thể nói, chính cảm xúc và sự hiểu biết thấu đáo là hai yếu tố đã giúp cho 12 bức chân dung trong “Trang sách trang đời” đều toát lên cái thần và cái hồn, cái độc đáo, đặc sắc của mỗi nhân vật.

Các tản văn hay đã giúp ta thấy rõ hơn một nét thú vị ở con người thú vị Bùi Mạnh Nhị - một nhà khoa học có tâm hồn nghệ sĩ.

Bùi Mạnh Nhị - gương mặt tiêu biểu của đội ngũ trí thức Việt Nam sau 1975

Bùi Mạnh Nhị là một tấm gương về tinh thần nỗ lực học tập và hăng say làm việc tiêu biểu của thế hệ trí thức Việt Nam sau 1975.

Sinh viên Văn khoa có nhiều bạn tài hoa nhưng tài hoa thường tài tử. Riêng Nhị có tiếng là học giỏi song rất nghiêm túc, chỉn chu. Anh chăm đọc sách và rất năng động: Tích cực tham gia các câu lạc bộ, thường xuyên làm thơ, viết bài đăng báo, say mê nghiên cứu khoa học, mở rộng quan hệ với những bạn bè nghệ sĩ…

Ra trường, anh sẵn sàng đến với vùng đất mới Nam Bộ, hăng hái đi điền dã để thu thập tư liệu quý báu về văn học dân gian. Với tinh thần “học nhi bất yếm, giáo nhân bất quyện”, anh đã nỗ lực học tập không ngừng để lấy bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học.

Trong số 359 cựu sinh viên K23, chỉ mình anh vinh dự có tấm bằng TSKH và cũng là người thành đạt nhất: Là Bí thư Đảng ủy – Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh hai khóa (từ 1999 – 2007), là Vụ trưởng vụ Tổ chức cán bộ Bộ Giáo dục & Đào tạo, Thư ký Hội đồng chức danh nhà nước…

Xuất hiện trong bộ phim, “K23 yêu dấu của chúng tôi - ngày ấy bây giờ”, anh tâm sự rằng: “Làm việc gì cũng phải tận tâm, say mê. Không say mê không thành công. Đã không làm thì thôi đã làm thì phải làm hết mình, vô tư vì học sinh, sinh viên thân yêu. Trong công việc phải luôn sáng tạo. Công việc gì cũng có cái khó nhưng khó khăn sẽ tạo cơ hội để thành công”.

Với sự cố gắng không ngừng, anh có được một vốn kiến thức sâu rộng và một phong thái lịch lãm, ung dung và lối ứng xử tinh tế, khéo léo, ân tình: ân tình với cha mẹ, gia đình, với thầy cô, bè bạn…

Vượt lên trên chính mình, Bùi Mạnh Nhị đã trở thành một trí thức tinh hoa - một gương mặt tiêu biểu cho thế hệ trí thức Việt Nam sau 1975.

PGS. TS. Trần Thị Trâm

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/chan-dung-gstskh-bui-manh-nhi-qua-trang-sach-trang-doi-post633377.html