'Cật' trong 'Bụng đói cật rét' nghĩa là gì?

Bụng đói thì có lẽ khỏi phải bàn, nhưng cật trong cật rét là gì? Vấn đề tưởng đơn giản, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu rất khác nhau, kể cả nghĩa của cật trong các bản trái nghĩa No cơm, ấm cật, Ấm cật, no lòng. Sau đây, xin giới thiệu và tạm chia thành ba cách hiểu về cật:

1- “Cật” là phần lưng, thắt lưng (được ghi nhận nhiều nhất)

- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Vũ Dung - Vũ Thúy Anh - Vũ Quang Hào): “Bụng đói cật rét (cật: phần lưng chỗ ngang bụng) Ngđ: Đã đói lại rét. Ngb: Nghèo khổ thiếu thốn”. Mục Được bụng no, còn lo cật ấm, nhóm Vũ Dung tái khẳng định “cật” là “phần lưng ở chỗ ngang bụng”.

- Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê - Vietlex): “cật [cũ] phần lưng ở chỗ ngang bụng: [...] Đói thì đầu gối biết bò, No cơm ấm cật còn lo lắng gì”.

- Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức): “cật • Lưng <> No thân ấm cật [...] Văn-liệu: Đói trong không ai biết, rách ngoài cật nhiều kẻ hay (T-ng)”.

2- “Cật” là quả thận

Từ điển thành ngữ - tục ngữ ca dao Việt Nam (Việt Chương) giải thích “Cật là cơ quan có tác động làm cho bộ phận sinh lý hoạt động. Do đó khi bụng đói thì người ta chỉ nghĩ đến cái ăn, chứ không còn ham muốn sinh thú gì nữa. Nghĩa bóng: nghèo khổ thiếu thốn”.

3- “Cật” là “hai vai” người ta

Sách 1575 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm (Lê Gia) giảng: “Đây là chữ “cật” có nghĩa ngang bằng. Ta gọi cái vai, phần ngang bằng trên thân thể, là “cái cật” như “ấm cật no lòng” và “chung lưng đấu cật”. “Cật rét” là cái vai bị rét. Khi ta mặc quần áo hay đắp chăn mền thì phải mặc, phải đắp trùm che hai vai thì mới đủ ấm, nếu không thì dù mặc gì, đắp gì nữa cũng vẫn cảm thấy còn lạnh. Khi tắm nếu ta xối nước lạnh vào vai trước tiên thì ta sẽ cảm thấy lạnh...”.

Chúng tôi cho rằng, các nhà biên soạn từ điển đều chưa hiểu đúng nghĩa chữ “cật” trong Bụng đói cật rét, cũng như “cật” trong No cơm, ấm cật.

Thực ra, cật ở đây có nghĩa là phần da thịt bên ngoài (không kể là lưng hay vai), đối với bụng (lục phủ ngũ tạng) bên trong. Đây chính là nghĩa của cật trong lạt cật (lạt được chẻ ra từ phần ngoài cùng cây tre, nứa), lạt bụng (được chẻ ra từ phần bên trong thân tre nứa). Ví dụ:

- Đói trong không ai biết, rách ngoài cật nhiều kẻ hay (tục ngữ):

“Rách ngoài cật” ở đây, không thể hiểu là “rách” ở phần “lưng chỗ ngang bụng”, hay ở “hai vai”, mà là rách quần áo che da thịt (toàn bộ bên ngoài thân thể). Theo đây, ta có thể loại bỏ luôn cách giải thích “cật” là quả thận - “cơ quan có tác động làm cho bộ phận sinh lý hoạt động” (ham muốn “sinh thú”) của Việt Chương.

- Được bụng no còn lo ấm cật (tục ngữ):

“Lo ấm cật” ở đây, là lo cái mặc, cái che ngoài thịt da (ngoài cật) của con người nói chung, chứ không riêng gì phần “lưng”, hoặc “phần lưng chỗ ngang bụng”, hay lo cho “quả thận” được ấm.

- Xưa kia kén lấy con dòng, Bây giờ ấm cật no lòng thì thôi (ca dao):

“Ấm cật no lòng” chẳng qua là cách diễn đạt khác của No cơm ấm áo. Mà “ấm áo” (ấm cật) ở đây có nghĩa là quần áo lành lặn, đầy đủ nói chung, chứ không riêng gì quần áo rét, hoặc chỉ che phần “thắt lưng”, hay “hai vai”.

- Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi (Nguyễn Đình Chiểu). “Ngoài cật”, ở đây cũng có nghĩa là thân mình chỉ có “một manh áo vải”, không được trang bị giáp trụ, vũ khí gì đáng kể.

Bụng đói cật rét, là một câu khá đặc biệt, bởi nó vừa là thành ngữ, lại vừa là tục ngữ.

Khi Bụng đói cật rét, được dùng với chức năng của một thành ngữ, thì nó mô tả tình cảnh cùng lúc người ta phải chịu đựng cả đói và rét; đã đói, lại rét; bên trong thì đói, bên ngoài thì rét. Trái nghĩa với thành ngữ Bụng đói, cật rét, là No cơm, ấm cật/No cơm ấm áo (thành ngữ Hán đồng nghĩa: Cơ hàn giao bách - - cùng lúc phải chịu đựng cả cái đói và cái rét, rất khốn khổ).

Khi Bụng đói cật rét, được dùng với chức năng của tục ngữ, thì đây là bản tỉnh lược của câu Bụng đói thì cật rét. Theo đây, ăn giúp cho cái bụng được no, mặc giúp cho thân mình được ấm. Dù cật có thiếu áo mặc, nhưng bụng được ăn no, thì sẽ đỡ rét hơn (No cơm thì ấm cật - tục ngữ). Ngược lại, nếu cật đã rét, mà bụng lại đói nữa, thì đã rét lại càng thêm rét; đã đói lại càng thêm đói. Cơ sở khoa học của câu tục ngữ này, là khi được bổ sung năng lượng, thì người ta sẽ đủ sức chống lại cái rét.

Như vậy, cật trong Bụng đói cật rét được hiểu là da thịt, thân mình. Và, Bụng đói cật rét, thường được dùng để chỉ tình thế, cảnh ngộ đói rét cụ thể, nhất thời nào đó, chứ ít khi được dùng để nói hoàn cảnh “nghèo khổ, thiếu thốn” (về kinh tế) nói chung, như cách giải thích của nhiều nhà biên soạn từ điển.

Lý Thủy

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/van-hoa/cat-trong-bung-doi-cat-ret-nghia-la-gi/28617.htm